39 Manh Mối (Tập 6: Trong Vùng Nước Thẳm)
Chương 17 - 18
CHƯƠNG 17 CON RẮN TRƯỜN NGANG CĂN PHÒNG NHỎ. Dan không cho rằng con rắn có vẻ vô hại sau cái vụ bị rớt xuống sàn nhà từ khoảng cách 15 mét. “Đừng hoảng sợ. Cứ để nó đi làm việc của nó,” Shep nói như thì thầm. “Trong mơ cháu cũng không nghĩ tới chuyện ngăn cản nó đâu,” Nellie vừa nói vừa lùi lại tránh đường. “Trong nọc độc của nó có chất neutrotoxin có thể gây tê liệt,” Dan nói. “Ngoài ra còn có chất myotoxin. Cái tên đó có nghĩa là nó thể phá hủy các mô tế bào của bạn...” “Tụi chị thật sự không cần biết nhiều chi tiết thế đâu,” Nellie nói. “Liệu chúng ta có thể rút gọn lại thành “đừng có để nó cắn” không hả?” Con rắn có màu cam pha nâu chậm rãi trườn ra phía cửa dẫn tới đường hầm chính. Cái lưỡi của nó cứ thè ra thụt vào. Nó phải dài đến gần 3 mét. Cả đám cố nín thở mỗi khi nó ngóc đầu lên. Nhưng nó chỉ cuộn người lại và nằm thư giãn trên nền đất. Họ sẽ phải bước qua người nó nếu muốn thoát ra. Shep vươn tay ra và nhặt được một cái búa. “Trước sau gì nó cũng sẽ bỏ đi thôi. Chúng ta có thể chờ.” Dan cảm thấy được sức ép quen thuộc trong lồng ngực nó. Hơi thở của nó biến thành tiếng khò khè. Nó cất tiếng ho, và Amy nhìn nó đầy lo lắng. “Em khỏe không?” “Em ổn mà.” Nó chỉ còn đủ sức để thốt ra câu đó. “Dan! Ống hít của em trong túi áo em đấy,” giọng Nellie nghe đầy khẩn cấp. Nó mò mẫm trong túi áo. Nhồi nhét trong đó là đủ thứ hầm bà lằng, một thanh kẹo, một viên đá ngộ nghĩnh nó tìm thấy trong vườn nhà Shep và cả một miếng bánh bột ngũ cốc mà nó để dành ăn sau. Nó lôi mạnh ra, và cái ống hít bay vọt ra, bắn lên không trung rồi đáp xuống nền hầm mỏ. Cái ống hít lăn thẳng về chỗ con rắn. Tim mọi người như ngừng đập. Âm thanh duy nhất là hơi thở nặng nhọc của Ống hít dừng lại cách con rắn taipan chỉ vài phân. Tiếng khò khè của Dan càng lúc càng tệ hơn, nó đưa cả hai tay ôm lấy ngực. “Chị sẽ đi lấy nó,” Nellie tuyên bố. “Không.” Tiếng Shep nói khẽ khàng nhưng rành rọt đầy uy quyền, và ông cũng đã di chuyển rồi. Ông giữ cái búa trong tư thế sẵn sàng, phòng khi con rắn tấn công. Shep tiến lại gần hơn. Cái lưỡi con rắn thụt thò. Bằng một động tác thật nhanh, Shep đá lọ thuốc xịt lại chỗ Nellie. Rồi ông nhảy ngược trở lại ngay khi con rắn chuyển động. Nó trườn tới một hai phân rồi dừng lại. Amy run rẩy thở hắt ra. Nellie dùng chiếc giày của cô gõ cho con nhện rơi ra khỏi cái ống hít. Rồi cô nhanh chóng đưa nó cho Dan. Nellie dùng chiếc giày của cô gõ cho con nhện rơi ra khỏi cái ống hít. Rồi cô nhanh chóng đưa nó cho Dan. Thằng nhóc cảm thấy phổi nó nở ra. Nó cảm thấy dễ thở hơn. Nhưng ngực nó vẫn còn cảm giác bị thắt chặt. Nó vẫn đang vật vã. Điều kiện chỗ này thật quá tệ. Có quá nhiều bụi trong không khí, còn việc đang ở trong một cái hang nhung nhúc những sinh vật có nọc độc chết người chẳng phải là điều có thể giúp nó trấn tĩnh được hơn chút nào. Nó cúi người về phía trước lúc những đốm đen bắt đầu nhảy múa trong mắt nó. Hoảng sợ chỉ làm mọi chuyện tệ thêm mà thôi, nó tự nhủ thầm. “Cứ thở tiếp đi, thở sâu và chầm chậm thôi, Dan-o,” Nellie bảo. Đoạn, cô quay sang Shep. “Chúng ta phải đưa Dan ra khỏi đây. Nó cần được chăm sóc y tế.” Dan hoảng sợ khi thấy rằng nó không còn đủ hơi sức chỉ để nói “Em ổn mà”. Một con nhện trèo lên giày của Amy, làm con bé la thất thanh và nhảy lùi lại. “Không sao đâu, con này không độc,” Shep bảo con bé. Ông gọi Nellie. “Lấy thùng đồ nghề. Cẩn thận đấy, phải đảm bảo không có con gì đu theo trên đó.” Nellie thận trọng cầm thùng đồ nghề lên. Cô đưa nó cho Shep. “Hãy cho Ken một chuyến thăm viếng bất ngờ nào,” Shep nói. “Chúng ta chỉ phải tạo ra một cái cửa mới. Đứng yên đó nhé, Dan.” Ông vung búa nện vào bức tường. Một mảng tường vỡ rơi xuống sàn. “Đưa cháu một cây búa,” Nellie nói. “Cháu sẽ giúp một tay.” “Còn hai đứa cháu, coi chừng con rắn taipan với tụi nhện nhé,” Shep nói. “Nếu tụi nó đi về hướng này thì kêu chú.” Ông đập mạnh vào bức tường, làm nó vỡ ra thành từng mảng. Nellie cũng nện những nhát búa đầy uy lực. Chỉ sau vài phút, họ đã mở ra được một lỗ hổng trên bức tường, đủ to để bước qua đó. Dan đi đầu tiên, và sau đó người nọ tiếp người kia, họ trèo vào căn phòng của Ken. Dan ngồi bệt trên sàn nhà, cố hết sức để thở. “Thằng bé cần bác sĩ,” Nellie lo lắng nói. “Gọi cho Jeff và bảo anh ta rằng đây là tình huống cấp cứu,” Shep nói. “Và sau đó bảo anh ta gọi cảnh sát.” *** Vào lúc họ gặp được bác sĩ thì Dan đã cảm thấy đỡ hơn nhiều rồi. Nó được kiểm tra và được cho một lời cảnh báo rằng đừng bén mảng đến những mỏ ngọc mắt mèo nữa. Dan đồng ý ngay tắp lự. Vào lúc họ gặp được bác sĩ thì Dan đã cảm thấy đỡ hơn nhiều rồi. Nó được kiểm tra và được cho một lời cảnh báo rằng đừng bén mảng đến những mỏ ngọc mắt mèo nữa. Dan đồng ý ngay tắp lự. “Đó là lần đầu tiên chị nghe thấy em nói “rõ, thưa ngài” với một nhân viên nhà nước và có ý định thực hiện điều đó.” Nellie vừa nói vừa nhăn răng cười trong lúc tụi nó quay trở lại xe của Ken. Cô quàng một cánh tay lên vai thằng nhóc và thậm chí còn hôn lên đỉnh đầu nó nữa, nhưng Dan không lấy đó làm phật ý. “Này nhóc, đừng làm chị sợ theo kiểu đó nữa nhé,” cô nói. “Kiểu khác cũng không.” “Đúng thế,” Amy nói thêm. “Có lẽ tụi mình nên tạm thời bỏ mấy cái hầm mỏ ra khỏi lộ trình.” Con bé nói mấy câu đó một cách nhẹ nhàng, nhưng nó vẫn cảm thấy run rẩy mỗi khi nhìn thấy vẻ tái nhợt và bệnh hoạn của em trai mình. Ken không vui chút xíu nào khi ông liếc sơ qua căn phòng phụ của mình và nhận ra nó đã bị mất một bức tường. Đó là chưa kể tới chuyện có một số sinh vật độc hại đang nằm ngổn ngang ở phía đối diện. Với sự giúp đỡ của một vài chuyên gia ở Coober Pedy, con rắn và lũ nhện đã bị tóm gọn và mang đi. Cảnh sát tra hỏi, nhưng Dan và Amy chẳng đưa ra được câu trả lời nào. Còn Shep thì dường như không thể nào trút đi được vẻ mặt lo lắng. Cuối cùng, Shep và Jeff tình nguyện đưa Ken xuống quán rượu để xoa dịu ông già. Ngày hôm đó đã quá dài rồi. Nhưng Amy vẫn đang nóng lòng muốn xem xét những chữ viết tắt mà tụi nó đã tìm thấy trên chiếc phong bì bằng da. Sau khi ăn qua loa bữa tối, nó khởi động máy tính xách tay của Dan lên. “Được rồi,” con bé nói, mấy ngón tay nằm ở tư thế sẵn sàng trên bàn phím. “Chúng ta tìm cái gì bây giờ? Việc đào xới mấy chữ RCH chắc chắn sẽ dẫn chúng ta vào ngõ cụt mà thôi.” “Em nghĩ chúng ta nên giả định rằng chữ C có thể là chữ viết tắt của từ Cahill, có được không?” Dan gợi ý. Amy gật đầu. “Chị cũng đang nghĩ giống em. Và nếu chúng ta cho rằng ông ta ở Sydney vào năm 1896, cứ coi như lúc đó ông ta khoảng tầm hơn 20 tuổi, đúng không nào? Vậy điều đó có nghĩa rằng ông ta sinh vào khoảng...” “Những năm 1870,” Dan nói tiếp. Amy kích hoạt một công cụ tìm kiếm. “Được rồi. Hãy bắt đầu với tên Robert Cahill gì đó... phòng trường hợp Bob chính là tên thật của ông ta. Chị sẽ thử tìm... Robert Cahill với Sydney và 1890.” Amy rên lên ngán ngẩm khi một danh sách kết quả dài đằng đẵng hiện ra. “Tra từ “Darwin” thử coi,” Dan gợi ý. “Đó là một thành phố nhỏ “Đặc biệt là vào thời đó,” Amy đồng ý. Amy nhập vào từ “Robert Cahill”, “những năm 1980” và “Darwin”. Một biển thông tin khác xuất hiện. Con bé đọc dần xuống theo danh sách. “Cách này không hiệu quả rồi. Tất cả những thứ chị đang có chỉ toàn liên quan tới Charles Darwin... chờ một giây đã...” Amy đột ngột ngồi thẳng người lên. “Chắc chắn phải là cái này! Chị đã có được tên của ông ta rồi! Đó là...” CHƯƠNG 18 “ROBERT CAHILL HENDERSON,” Isabel lặp lại vào điện thoại di động. “Hiểu rồi.” Cô ta quay người lại để nói chuyện với những người đang ngồi ở ghế sau. Bọn họ đã rời khỏi Coober Pedy một cách vội vã, nhưng cô ta vẫn đỗ xe lại cạnh đường để nghe cuộc điện thoại mà cô ta đang trông chờ. “Giờ đã tới lúc cũng có người làm được việc rồi. Căn cứ của nhà Lucian đã dùng máy chủ của họ để phân tích tất cả những thành viên của chi họ Ekaterina mà người ta biết được trong khoảng thời gian từ năm 1840 đến năm 1900. Máy tính đã tìm được một kết quả khớp giữa Coober Pedy và Cahill. Có vẻ như ngay cả những tên ngốc điên khùng câm như hến cũng phải dùng tên thật của mình trong giấy tờ chứng nhận quyền khai thác mỏ. Robert Cahill Henderson là người chúng ta tìm.” “Giờ đã tới lúc cũng có người làm được việc rồi. Căn cứ của nhà Lucian đã dùng máy chủ của họ để phân tích tất cả những thành viên của chi họ Ekaterina mà người ta biết được trong khoảng thời gian từ năm 1840 đến năm 1900. Máy tính đã tìm được một kết quả khớp giữa Coober Pedy và Cahill. Có vẻ như ngay cả những tên ngốc điên khùng câm như hến cũng phải dùng tên thật của mình trong giấy tờ chứng nhận quyền khai thác mỏ. Robert Cahill Henderson là người chúng ta tìm.” “Thế thì chúng ta sẽ đi đâu tiếp theo ạ?” Natalie vừa hỏi vừa nghịch mái tóc dài mượt như tơ xõa xuống hai vai nó. “Con hy vọng sẽ là chỗ nào đó thuận tiện cho việc mua sắm. Dubai[1] phải không ạ?” nó hỏi giọng tràn trề hy vọng. [1] Một nước thuộc Các tiểu vương quốc A-rập. “Jakarta,” mẹ nó đáp. “Chỗ đó là chỗ nào?” Natalie vừa hỏi vừa vật người ra ghế. “Nghe chẳng hấp dẫn gì cả.” “Ta trả tiền cho con ăn học làm gì nhỉ?” Isabel hỏi lại. “Jakarta nằm ở Java. Năm 1883, Henderson đã đi từ nơi đó đến Sydney trên một con tàu có tên là Lady Anne.” Isabel nhìn kháy Irina. “Đồng chí có điều gì bận tâm à? Cô đang lo lắng cho Dan và Amy bé bỏng à? Chúng nó hình như có tới chín cái mạng. Chúng nó vẫn còn sống. Một chút sợ hãi sẽ giúp chúng nó biết điều hơn.” Irina chẳng nói chẳng rằng. Dưới chân ả là cái bình và cái hộp mà “Người Thu Xếp” đã chuyển tới cho Isabel, giờ đây đã trống rỗng. Isabel đã huýt sáo trong lúc tự tay ả mang nó lên chiếc máy bay riêng mà cô ta đã thuê để đưa bọn họ tới Coober Pedy. Cô ta cũng đã thu xếp để đem một chiếc Hummer từ Adelaide xuống. Irina đã không hề biết trong hộp có gì, cho tới khi Isabel mở nó ra. Isabel đã mỉm cười trong lúc cô ta trút cái bình đầy nhện độc ra. Cô ta đã dự định thả chúng vào phòng khách sạn của mấy đứa nhỏ nhà Cahill, nhưng làm thế này còn tốt hơn. Đổ thẳng qua đường ống xuống đầu chúng! Isabel cũng đã xử lý con rắn một cách dễ dàng. Chẳng có lấy một giọt mồ hôi rịn ra trên trán cô ta lúc cô ta bật cái chốt và tóm lấy con rắn từ đằng sau đuôi, bằng một đôi găng tay dày. Cô ta đã thích thú với nó. Thích thú với việc được ở thật gần sinh vật chết người đáng sợ đó. “Tôi muốn cô bám theo mấy đứa nhóc hỗn láo nhà Cahill trong lúc tôi đưa Ian và Natalie đi với tôi. Nhất cử nhất động của chúng nó cô đều phải báo cáo lại. Nếu nhờ một cơ may mỏng manh nào đó mà chúng nó biết đường tìm tới Java thì cô hãy cản chúng nó lại. Tôi mệt mỏi vì bị chúng quấy rầy lắm rồi.” “Sau đó thì sao?” Irina hỏi. “Cái gì sau đó?” Isabel gắt gỏng hỏi lại. Cô ta đang kiểm tra lớp son môi của mình trong gương chiếu hậu, và cô ta xoay nghiêng cái gương để nhìn thấy Irina. “Chúng nó sẽ không bị tụt lại lâu đâu,” Irina nói. “Chúng ta đều đã thấy sự kiên trì của chúng. Thế kế hoạch tối hậu của cô dành cho chúng là gì?” Isabel nhún vai. “Tôi chưa nghĩ sâu xa đến mức đó. Tôi đang bận tập trung vào manh mối này. Chúng ta thậm chí có thể sẽ tìm thấy tất cả ba mươi chín manh mối - các con có tưởng tượng được điều đó không? - bởi vì chúng ta đã hầu như chắc chắn trăm phần trăm rằng Robert Cahill Henderson nắm giữ hầu hết, nếu không nói là tất cả, các manh mối. Amy và Dan sẽ không còn giá trị nữa. Tụi nó sẽ chỉ còn là cát bụi. Chẳng đáng để đối phó nữa.” Isabel nghịch cái bùa bằng vàng trên vòng tay của cô ta, rồi lại hướng sự chú ý vào mấy cái móng tay. Irina quan sát sự bất cẩn không bình thường của Isabel. Cô ta làm như thể chuyện tỉa tót móng tay móng chân là việc quan trọng nhất trên thế giới không bằng. Irina đã biết Isabel quá lâu và quá rõ. Chuyện cô ta quan tâm sâu sắc đến việc đánh bóng móng tay là điều có thật. Nhưng cô ta cũng quan tâm sâu sắc tới việc rũ sạch phiền toái. Isabel đã sử dụng một số mưu kế độc nhất của cô ta để dọa cho tụi nhỏ sợ mà bỏ đi. Cô ta sẽ sớm nổi cơn thịnh nộ. Irina có thể cảm thấy cơn giận của cô ta đang dâng lên. Đây là một quãng đường dài, Irina nghĩ thầm. Giờ thì cuối cùng mình cũng đã có thể nhìn thấy điểm kết thúc.
Bạn có thể dùng phím mũi tên
hoặc WASD để
lùi/sang chương