Bên Cạnh Thiên Đường

Chương 14



Trát Ba giải thích, cách lý giải về sự sống và cái chết của người Tạng và người Hán không giống nhau.

Thực ra sống và chết, đều chỉ là một chặng đường. Huống hồ Kha Lan còn là một cô nhi.

Trên đời này không còn tình yêu nào dành cho Kha Lan lớn bằng tình yêu của Trát Ba! Như vậy thì còn gì mà phải áy náy nữa.

Tôi tìm được một nhà trọ vừa rẻ vừa an toàn ở Urumqi.

Dự định ở đây đợi những người thám hiểm ngoài trời, rủ họ cùng thuê xe tới thành cổ Lâu Lan.

Thành phố xa lạ. Buồn chán không có việc gì làm, tôi bèn ra phố đi loanh quanh, đến khu chợ, đi lang thang giữa các sạp hàng chật chội, hàng hóa hầu như cũng giống nhau: vải dệt của người Duy, cung tên, đao kiếm, đàn Donbu a, đồ da thật, hoa sen tuyết …

Có một  gian hàng rất đặc biệt, treo đầy các loại sừng động vật khác nhau, còn có cả lông chim nữa. Trên bàn bày đủ thứ kỳ lạ như răng động vật, xương hóa thạch. Tôi đặc biệt chú ý đến những chiếc răng, có chiếc dài nhọn, có chiếc ngắn ngủn, có chiếc to tròn, có chiếc nhỏ xíu, có chiếc được xuyên dây đỏ qua để đeo, có chiếc thì để trơn chẳng có gì hết. Anh chàng chủ tiệm ngồi sau bàn, ăn mặc kiểu người Tạng, cúi đầu chăm chú mài một chiếc răng dài.

Tôi hỏi anh ta đây là lông chim gì? Chủ tiệm lười nhác ngước mắt lên nhìn tôi một cái, nói là lông chim ưng đầu hói. Tôi lại chỉ tay vào mấy chiếc răng trên bàn hỏi tiếp. Anh ta không có vẻ muốn trả lời lắm, giọng nói có vẻ bực bội, nói có răng sói, răng hổ cả răng báo nữa. Tôi hỏi cái nào là răng báo, thì anh ta nghĩ gì đó một lúc, rồi đưa cái răng đang cầm trên tay cho tôi. Tôi đón lấy, cẩn thận xem xét, đúng là một chiếc răng của một trong những loài động vật kiêu ngạo hung tàn nhất. Rất tròn, độ cong tự nhiên, đúng là một chiếc răng đẹp vào loại hiếm thấy. Chủ tiệm chỉ cho tôi xem chỗ sáp vừa bọc ở chân răng để phòng mối mọt, nói rõ đây là răng thật.

Tôi mua luôn chiếc răng đó.

Thử dò hỏi:

- Đúng là răng báo thật chứ?

- Bạn bè đâu phải để gạt.

Chủ tiệm cúi gằm mặt xuống nói, không nhìn thấy nét mặt thế nào.

Chúng tôi tiếp tục nói chuyện. Có lẽ tại vì đều thích thám hiểm khảo cổ nên hai chúng tôi rất hợp nhau. Chủ tiệm rất hào phóng, cứ nằng nặc đòi mời tôi ăn cơm. Tôi giúp anh ta thu dọn sạp hàng, rồi kéo nhau vào một quán cơm Tân Cương gần đó vừa ăn vừa nói chuyện.

Anh ta tên Trát Ba, là người Tạng.

- Sao anh không ở Tây Tạng, không phải chỗ đó làm ăn dễ hơn sao?

Tôi hỏi.

- Bạn gái tôi là người Tân Cương, không cần nhiều tiền, chỉ cần được sống với nhau thôi.

Trát Ba điềm đạm trả lời.

- Những thứ này anh mua buôn lại hả?

- Không hẳn. Một phần là mua của người đi buôn, còn hầu hết là đến chỗ của dân du mục để thu mua. Cứ hai tháng lại đến Nam Cương một lần, tìm tới những nơi ở ráp  gianh sa mạc thu mua, rồi mang về bán lấy tiền.

Câu chuyện của Trát Ba làm tôi cảm thấy hứng thú lạ kỳ, hỏi xem lần sau có thể dẫn tôi đi được không? Trát Ba cười cười lắc đầu, nói không được. Anh ta chưa bao giờ cho người lạ đồng hành, trừ phi là bạn bè. Tôi nhún vai tự giễu cợt, nâng chén mời Trát Ba uống rượu. Lúc thanh toán anh ta kiên quyết đòi trả tiền, lý do là “hôm nay tôi đã lấy của anh không ít tiền rồi.” tôi cảm thấy lòng mình nóng dần lên, đặc biệt thích thú anh chàng người Tạng vừa thành khẩn thật thà nhưng cũng không mất đi vẻ hào sảng tự nhiên này.

Để đáp lại bữa cơm, tôi mời Trát Ba đi uống rượu. Ấn tượng của anh ta về tôi cũng không tệ lắm, nên liền vui vẻ đồng ý.

Hai người chui vào một quán bar nhỏ.

Vừa vào trong đã nghe thấy tiếng nhạc bài “Sgt Pepper’s loney hearts club band” của The Beatles. Mỗi lần nghe bài hát này là tôi lại nhớ đến cái tên tiếng Trung đọc muốn méo miệng của nó: “Ban Nhạc Câu Lạc Bộ Các Hạ Sĩ Cô Đơn” Thật không hiểu tại sao mấy ông già The Beatles lại nghĩ ra được cái tên này? Càng nghĩ tôi lại càng nghi ng không biết tế bào não của họ có phải do thượng đế đặc biệt chế tạo và lắp ráp riêng hay không, ít nhất thì cũng rất khác với người bình thường? Không có The Beatles, thế giới này không biết đã mất đi bao nhiêu niềm vui. Cũng giống như cuộc sống không có tình yêu vậy.

Chúng tôi gọi hai chai bia của địa phương sản xuất, vừa uống vừa nói chuyện. Trát Ba hình như không quen đến bar lắm, cứ hỏi này hỏi nọ mãi. Tôi vừa cười vừa lần lượt giải thích cặn kẽ từng câu một.

- Ai đang hát thế?

Trát Ba uống một ngụm lớn rồi hỏi.

- Một ban nhạc ở Anh, tên là The Beatles.

Tôi nhấm một ngụm bia, mỉm cười đáp.

- Bọn họ đều để tóc dài hết à?

- Từng để thôi. Tôi thích họ để tóc dài, cả các tác phẩm họ sáng tác lúc ấy nữa.

- Liệu người này có đến Trung Quốc hát không nhỉ?

- Muốn đến cũng không được. Họ không phải là một người, mà là bốn người. Hơn nữa có hai người đã chết rồi.

Trát Ba trầm ngâm nói:

- Vậy thì chắc là họ rất khó chịu, trên đời này chẳng còn gì quan trọng hơn bạn bè cả.

Không hiểu tại sao, mỗi lời của Trát Ba đều khiến tôi cảm động.

Không khỏi nhớ lại cái chết của một thành viên The Beatles, George Harrison.

Lần đó tôi ngồi xe bus đường dài từ Malaisia sang Singapore. Đường dài, tôi thấy buồn ngủ, bèn bật The Beatles lên nghe, quả nhiên tỉnh táo hẳn. Một người Singapore ngồi bên cạnh tôi đang đọc báo, tờ báo đó dành hẳn một bài ở vị trí nổi bật để viết về cái chết của George Harrison. Tôi và ông ta vốn không thân không thích, đáng lẽ phải như nhìn thấy một người bị xe đụng chết trên đường tiếng rồi thôi. Thế nhưng chẳng hiểu sao tôi lại thấy lòng mình nhói đau, cái đau còn giữ lại rất lâu.

Hai người chìm sâu vào dòng suy tưởng, không ngừng nốc bia, không khí trở nên bức bối ngột ngạt.

Lúc này trong loa vang lên bài “Hey! Jude” của The Beatles.

Trát Ba nói thích, lắc lư đầu theo tiếng nhạc. Đến đoạn “La la la la, hei! Jude!” Tôi bắt trước John Lennon và Haris son hét lên, Trát Ba cũng hét lên theo tôi, làm khách ở mấy bàn bên cạnh đều mắt tròn mắt dẹt ngó sang nhìn.

Một cô gái người Duy thẹn thùng bước vào.

Đó là Kha Lan, bạn gái của Trát Ba, làm hướng dẫn viên du lịch. Nghe nói là một cô nhi.

Nói đến chuyện này, Trát Ba có vẻ rất vui. Nhìn vẻ mặt ngờ nghệch của tôi, Trát Ba giải thích, cách lý giải về sự sống và cái chết của người Tạng và người Hán không giống nhau, thực ra sống và chết đều chỉ là một chặng đường. Huống hồ Kha Lan còn là một cô nhi. Trên đời này không còn tình yêu nào dành cho Kha Lan lớn bằng tình yêu của Trát Ba! Như vậy thì còn gì mà phải áy náy nữa.

Tôi nghe mà tim như đau thắt lại, cảm thấy thật hổ thẹn.

Hổ thẹn vì những ngày tháng hoang đàng trong quá hứ, hổ thẹn vì cái thứ tình yêu giả tạo không kết quả với Bất Bất, hổ thẹn vì giờ đây mình không nơi nương tựa, không nơi gửi gắm tình cảm. Trát Ba hình như là một tấm gương, soi chiếu một “tôi” khác, thằng “tôi” đang lẩn trốn trong bầu không khí bẩn thỉu của thành thị ồn ào.

Sáng hôm sau ngủ dậy, đánh răng rửa mặt xong quyết tâm làm năm mươi cái chống đẩy, cảm thấy chưa đã, lại làm thêm một bài thể dục nữa. Đi ra bảng thông báo của khách sạn, nhìn tờ giấy đã dán ở đó hôm trước: “Tìm tám người cùng đi thám hiểm thành cổ Lâu Lan.” Thấy chỉ có một người để lại lời nhắn, viết: “Thằng điên!” Tôi nghĩ một lát, rồi viết thêm bên dưới: “Ngoài anh bạn Thằng Điên này ra, còn ai muốn đi nữa thì xin để lại lời nhắn.”

Nhân viên phục vụ gọi tôi nghe điện thoại, là của công ty du lịch dã ngoại tổ chức đợt thám hiểm Lâu Lan lần này, họ nói trong tuần này nhất định phải chốt số người đi, nếu không sẽ hủy bỏ kế hoạch. Tôi gác điện ngoại, ngồi lỳ trong phòng đọc Ilias của Home re, đọc đến đoạn “Themis cầm chân Achilles nhúng xuống dòng sông Đen”, liền gấp sách lại, hai tay ôm đầu, dựa lưng vào đầu giường trầm tư suy nghĩ một lúc lâu.

Buổi chiều nhàn rỗi không có việc gì làm, tôi lại mò ra chỗ Trát Ba.

Anh ta đang bận mài răng. Nhìn tôi cười cười, ra hiệu ngồi xuống, rồi lại tiếp tục mài răng. Tôi rút một điếu MOODS đưa cho Trát Ba, hai người ngồi lặng lẽ hút thuốc, không nói gì. Tôi mang cho Trát Ba một đĩa CD tuyển tập của The Beatles. Anh ta rất vui, liền mượn ngay máy nghe nhạc ở hàng bên cạnh nghe từ đầu đến cuối, đầu lắc lư lắc lư, không ngừng nhìn tôi cười cười. Đến bài “Hey! Jude!” Trát Ba liền rống lên như tối qua, làm tôi bật cười sằng sặc.

Trát Ba lại đòi mời cơm.

Chúng tôi đi đón Kha Lan vừa tiễn đoàn du lịch đi, rồi đến quảng trường 1- 5.

Ba người gặp hàng nào là xà vào hàng đó, cơm thịt dê, mỳ kéo, bánh bao rán, mùi vị rất đặc biệt. Kha Lan muốn ăn kem, Trát Ba liền kéo cô bé sang quán giải khát cạnh đó, còn tôi thì đứng xếp hàng đợi thịt dê xiên nướng.

Sau đó, đã xảy ra một vụ tranh chấp kịch liệt.

Một đám thanh niên Tân Cương đòi lấn hàng tranh chỗ của tôi. Tôi không đồng ý, hai bên liền bắt đầu cãi nhau, một gã ăn mặc kiểu Kazakh bất ngờ đấm mạnh một cái, tôi không đề phòng bị gã ta đánh cho ngã lăn ra đất, đụng phải cái lò nướng, làm đồ đạc liểng xiểng rơi lên người. Đám thanh niên cười ồ lên, cứ như kẻ vừa bị đánh không phải người, mà là một con lợn vậy. Tôi lồm cồm bò dậy, đứng trân mắt nhìn bọn chúng cười. Đám thanh niên tưởng tôi muốn xin lỗi, lại ngạo mạn cười to hơn nữa, quay đầu đi không thèm nhìn tôi. Tôi lặng lẽ cầm một chiếc ghế băng dài, xông tới đập thẳng vào lưng gã vừa đánh mình. Gã thanh niên kêu lên một tiếng rồi gục xuống. Cả đám còn lại đều bừng bừng tức giận, vây lấy tôi vào giữa. Tôi biết là không xong, liền vứt luôn chiếc ghế trong tay xuống đất, định để mặc cho chúng muốn làm gì thì làm. Đột nhiên, một tên trong bọn bất ngờ ngã bổ nhào tới trước mặt tôi. Phía sáu là Trát Ba, anh ta một tay cầm cái ghế, một tay bảo vệ Kha Lan, ánh mắt lạnh lùng nhìn đám thanh niên còn lại, tựa như một con báo dũng m trong sa mạc đang nhìn con mồi của mình vậy.

Cảnh sát đến nơi thì sự việc đã kết thúc. Đối phương một bị thương nặng, hai người không bò dậy nổi. Còn tôi thì bị đánh sưng tím mặt mũi, cánh tay không nhấc lên nổi. Trát Ba trúng một đao vào vai, vết thương rất sâu, hình như đã phạm vào đến xương. Cũng may là Kha Lan không sao hết.

Trát Ba bị thương vì bảo vệ tôi.

Vừa rồi lúc đánh nhau, thằng nhãi bị tôi đánh ngã lẻn ra phía sau, tay lăm lăm cầm dao Yengisar định đánh lén. Trát Ba liếc thấy liền xông tới ôm chặt lấy tôi. Lưỡi dao đâm vào bả vai ngọt sớt. Điều làm tôi kinh hãi là lúc bị đâm, Trát Ba không hề tỏ ra đau đớn, ngược lại còn mỉm cười nói với tôi: “Bây giờ thì chúng ta là bạn rồi!”

Đến bệnh viện băng bó, Trát Ba vẫn cứ như không có chuyện gì xảy ra, từ đầu đến cuối chỉ cười cười.

Nụ cười ngây ngô của Trát Ba làm tôi nhớ đến Quán Đầu, trong lòng chợt dâng lên một cảm giác ấm áp khôn tả.

Hôm sau Kha Lan phải theo đoàn du lịch đi hồ Kanasi, để Trát Ba để lại cho tôi chăm sóc, chúng tôi bèn quyết định dọn luôn vào khách sạn ở.

Thực ra phải nói là Trát Ba chăm sóc tôi mới đúng. Cậu ta chỉ bị thương ở vai, hành động vẫn bình thường. Còn tôi thì một tay không cử động được, rửa mặt tắm rửa đi toi let đều hết sức khó khăn, đều phải nhờ Trát Ba giúp đỡ. Lúc rửa mặt, cậu ta dấp ướt khăn, rồi lau mặt cho tôi, sau đó lại giặt sạch khăn, treo lên chỗ thoáng gió. Lúc đánh răng, Trát Ba bóp kem đánh răng, rót nước cho tôi, đợi tôi đánh răng xong, liền cầm chiếc cốc dính đầy bọt bẩn đem đi rửa sạch sẽ.

Chúng tôi ngồi nói chuyện, nói mệt rồi thì xem sách, xem sách chán lại nghe nhạc, nghe nhạc chán thì đi ngủ, tỉnh dậy lại tiếp tục nói chuyện, đói thì gọi quán anh cạnh đó mang đồ lên, vừa ăn vừa uống rượu, ăn xong lại nói chuyện tiếp. Mấy ngày sau, vết thương của cả hai đã đỡ nhiều, ban ngày tôi ra tiệm của Trát Ba giúp đỡ, đến tối chờ Kha Lan về, ba người chúng tôi lại dọn đồ đi ăn. Ăn xong thì vác bia ra chợ ngồi nhìn mọi người nhảy múa các điệu vũ Tân Cương đặc sắc.

Cứ đến chiều tối là có các ông già người Duy ra ngồi thành một vòng lớn dưới đất, thổi kèn, đàn Donbula, gõ các loại trống khác nhau. Các cô gái chàng trai địa phương và các du khách đều hoan hỉ nhảy múa rất vui vẻ.

Trát Ba rất hào hứng, cậu ta kéo Kha Lan ra nhảy chung với mọi người. Họ dơ tay cao quá đầu, eo hông lắc theo nhịp điệu, mũi chân không ngừng nhún nhảy. Ánh hoàng hôn rải trên người họ, tạo thành một đôi bóng dài lắc lư trên mặt đất.

Tôi nhìn Trát Ba và Kha Lan, trong lòng bồi hồi cảm động.

Có lẽ hạnh phúc chính là đây.

Trở về khách sạn, cảm giác xúc động đó vẫn còn trào dâng như sóng cuộn.

Tôi ngồi nghĩ một lát, rồi chạy ra quầy, gọi điện cho Lông Mi ở nhà. Mãi không thấy ai bắt máy, đành bỏ cuộc.

Lại gọi điện về quán. Trà Sữa nghe máy, nó nói mọi chuyện đều ổn, bảo tôi đừng lo. Hỏi thăm Bì Tử, nhưng cậu ta không ở quán, không biết lại lượn đi đâu mất. Tôi buông máy, ngồi ngẩn người ra trong sân một lúc lâu.

Đột nhiên nhận ra nếu có một người trong lòng để mà nhớ nhung, để mà lo lắng thì thật hạnh phúc biết bao?

Chợt thấy xót xa.

Một hôm, Trát Ba đột nhiên quyết định đến các làng ở xa thu mua hàng hóa.

Tôi tỏ ý muốn đi cùng, cậu ta liền gật đầu vui vẻ đồng ý. Hai người thuê một chiếc xe hàng cũ kỹ rách nát, đem các đồ dùng cấn thiết khi đi đường vứt lên thùng xe, rồi tạm biệt Kha Lan, lên đường từ sáng sớm. Kế hoạch của tôi với Trát Ba là đi vòng ra phía Tây Bắc sa mạc Taklimakan, thẳng tiến theo con đường song song với sông Tarim.

Cậu ta bị ảnh hưởng của tôi, lúc lái xe nhất định phải nghe nhạc mới chịu được.

Tôi bật một album của Nirvan Trát Ba hỏi ban nhạc nào đang hát? Nghe tôi bảo là Nirvana, ca sĩ chính Kurt Coban đã tự sát. Cậu ta liền cười cười, bảo chẳng trách, nghe thứ nhạc này mà không tự sát mới là lạ, nói gì người đã viết ra nó. Rồi cậu ta lại hỏi tôi xem Kurt tự sát thế nào? Tôi nói, ngậm họng súng vào miệng, rồi lẩy có, một tiếng nổ vang, đầu nát toét, vô cùng bi tráng. Trát Ba nghe xong thì cười, nói còn có chuyện bi tráng hơn nữa, chính là sau khi chết đi, được thiên táng trên tảng đá lớn ở di chỉ Cổ Cách, nằm đó cho lũ chim ưng đầu hói ăn thịt. Tôi hỏi tại sao phải đến tận Cổ Cách. Trát Ba nói đó là ngôi nhà tinh thần của cậu ta, nhà ở ngay gần đó, mỗi khi gặp chuyện gì khó khăn, chỉ cần tới khu di chỉ đổ nát đó ngồi một lát là lập tức tìm được phương cách giải quyết, vô cùng thần ký. Tôi thay đĩa “Trở về Lasa” của Trịnh Quân vào, rồi cùng Trát Ba hưng phấn hát theo đến lúc khản cả cổ mới thôi.

Chúng tôi lái xe qua núi Thiên Cách Nhĩ cao vút. Đến chạng vạng tối thì đến được Korla.

Trát Ba dẫn tôi đến một khu chợ bán thổ sản địa phương. Ở đây có đủ thứ hình thù kỳ lạ, nhìn rất bắt mắt. Cậu ta cẩn thận xem xét từng thứ một, do dự hồi lâu trước một mảnh gỗ sứt mẻ lung tung, nghe nói mảnh gỗ này được lấy từ thành cổ Lâu Lan, giá rất cao. Trát Ba đứng thần người ra nhìn một lúc, thở dài vì đồ vật trong thành cổ bị trộm đem ra ngoài bán, rồi nói ước mơ lớn nhất đời mình là tìm ra một di chỉ giống như Lâu Lan hay Cổ Cách. Chúng tôi chọn mua một ít răng thú, sừng và da thú. Tối đến, hai người ngủ trong phòng ngủ chung của khách sạn, các khách khác cứ ngáy pho pho như sấm, trông chẳng khác gì cái chuồng lợn.

Trời mới tờ mờ sáng, Trát Ba đã gọi tôi dậy,

Xe hàng đi khỏi Korla, rời khỏi đường quốc lộ đi vào con đường nhỏ ghập ghềnh khúc khuỷu. Chắc bao lâu sau chúng tôi đã qua sông Khổng Tước. Trát Ba bảo con sông này nối liền hồ Bác Tư Đằng và Luobupo. Tôi nói có thể ngồi thuyền đi Lu obupo. Hai người cùng cười phá lên. Nói đến Lu obupo, tất nhiên không thể không nói đến Bành Gia Mộc và Dư Thuần Chân. Nhắc đến Dư Thuần Chân, Trát Ba có vẻ rất tôn kính, nói Dư Thuần Chân đã làm thay đổi cách nhìn của cậu ta với người Hán: hồi trước cứ luôn cho rằng người Hán không thể chịu khổ, chỉ biết ngồi ở thành phố mà châm chọc người sống trong sa mạc, Dư Thuần Chân đã cho cậu ta biết thế nào là anh hùng. Trát Ba có một nguyện vọng là được đến trước mộ Dư Thuần Chân, xem thử linh hồn của người anh hùng còn lẩn khuất nơi nao.

Đến trưa, thì chúng tôi qua sông Tarim, lên đến đường quốc lộ chạy ngang sa mạc

Ngồi xuống ven đường, lấy bánh mì, thịt trâu và nước suối ra ăn nhồm nhoàm. Con đường trước mặt kéo dài mãi dài mãi rồi biến mất ở đường chân trời. Trát Ba nói cứ đi thẳng thì sẽ đến Tây Tạng, vùng đất của các linh hồn. Ăn xong, hai chúng tôi nằm xuống vệ đường nghỉ ngơi. Trát Ba nằm một lúc đã ngáy đều đều, còn tôi thì nằm nghe “Texas, Paris”. Ở trong không  gian này mà nghe thứ nhạc này thì quả thật không còn gì hợp hơn nữa. Thật khâm phục sự sâu sắc mà một cây ghi ta có thể tạo ra, sức hấp dẫn thậm chí còn mạnh hơn cả giàn nhạc gi ao hưởng.

Rời khỏi quốc lộ, đường đi càng thêm khó khăn. Chúng tôi đến Ca Thập thu mua một ít hàng hóa ưa thích. Nhưng không có răng báo của Trát Ba. Đối phương bật cười: “Thời buổi này biết đi đâu tìm báo bây giờ?” Trát Ba không hề nản lòng, đi đâu cũng hỏi răng báo.

Chúng tôi rời Ca Thập, qua Diệp Thành đến Hòa Điền. Hòa Điền là một thị trấn nhỏ ở Nam Cương vẫn còn giữ được phong vị độc đáo của Tân Cương. Ở đây rất khó tìm được người nào nói lưu loát tiếng Hán, còn tiếng Duy của Trát Ba thì cũng chẳng ra sao, cuối cùng chúng tôi phải đến trường tiểu học mời một thầy giáo tiếng Hán làm phiên dịch. Tiếng Hán của thầy giáo người Duy này cũng không được ổn lắm, nhưng cũng có thể miễn cưỡng chấp nhận. Lúc đi, không có gì để cảm ơn, tôi liền lấy luôn quyển sử thi Ilias mang theo trong túi tặng cho ông ta.
Chương trước Chương tiếp
Loading...