Biểu Tượng Thất Truyền (The Lost Symbol)
Chương 76 - 78
Chương 76 Quảng trường Tự Do là một tấm bản đồ. Nằm ở góc Đại lộ Pennsylvania giao với Phố 13, bề mặt lát đá rộng mênh mông của khu vực này tái hiện đường phố Washington đúng như thiết kế nguyên bản của Pierre L’Enfant. Quảng trường Tự Do là điểm đến quen thuộc của khách du lịch, không chỉ vì tấm bản đồ khổng lồ thú vị mà còn vì luật sư Martin Luther Kinh Jr., từng viết phần lớn bài phát biểu “Tôi có một giấc mơ” tại Khách sạn Willard gần đó. Tên quảng trường được đặt lại cũng là để tôn vinh ông. Omar Amirana chở du khách tới Quảng trường Tự Do đã rất nhiều lần, nhưng hai hành khách tối nay rõ ràng không phải là người tham quan thông thường. CIA đang truy lùng họ? Omar chưa kịp đỗ lại bên lề thì hai người ấy đã nhảy ra.- Chờ ở đây nhé! - người đàn ông mặc chiếc áo khoác vải thô dặn Omar - Chúng tôi sẽ quay lại ngay!Dứt lời, họ chạy vội ra chỗ tấm bản đồ khổng lồ, vừa quan sát hình các đường phố giao cắt nhau, vừa chỉ trỏ trao đổi. Omar nhìn theo, rồi vớ lấy điện thoại di động chỗ bảng điều khiển.- A lô, ông vẫn còn đó chứ?- Phải! - một giọng quát to, rất khó nghe do tiếng ầm ầm bên phía anh ta - Giờ họ ở đâu?- Đã ra chỗ tấm bản đồ. Hình như đang tìm kiếm gì đó.- Đừng để họ thoát khỏi tầm mắt anh, - đặc vụ kia hét to - Tôi sắp đến nơi rồi!Omar tiếp tục theo dõi. Hai kẻ bị truy đuổi nhanh chóng tìm được dấu Quốc ấn nổi tiếng, một trong những tấm huy chương bằng đồng lớn nhất trên đời. Họ nấn ná ở đó chốc lát rồi trỏ về phía tây nam. Người đàn ông mặc áo vải tuýt chạy bổ trở lại taxi. Thấy anh ta hổn hển lao đến nơi, Omar nhanh chóng bỏ điện thoại xuống.- Hướng nào đi Alexandria, Virginia? - anh ta hỏi.- Alexandria à? - Omar chỉ về tây nam, đúng hướng mà hai người khách vừa trỏ lúc nãy.- Tôi hiểu rồi! - người đàn ông lào phào, vẫn thở hồng hộc, đoạn xoay ra hét to với người phụ nữ - Chị nói đúng! Alexandria!Giờ người phụ nữ lại trỏ ngang quảng trường tới tấm biển “Tàu điện ngầm”, sáng rực gần đó.- Tuyến Xanh lam chạy thẳng tới Alexandria. Chúng ta cần đến ga King Street!Omar phát hoảng. Ôi không.Người đàn ông quay lại trả tiền cho Omar, trả nhiều hơn cả cuốc xe.- Cảm ơn. Chúng tôi đi đây - Anh ta vớ lấy tôi da và nhấc chân chạy.- Đợi chút! Tôi có thể chở các vị! Tôi thường xuyên đến đấy!Nhưng đã quá muộn. Người đàn ông và người phụ nữ mau chóng băng qua Quảng trường Tự Do, khuất dạng trên cầu thang dẫn xuống ga tàu điện ngầm Metro Center.Omar vớ lấy điện thoại di động.- Thưa ông! Họ xuống lối tàu điện ngầm. Tôi không ngăn được. Họ sẽ đón tàu Tuyến Xanh lam để đến Alexandria!- Cứ ở nguyên tại chỗ! - Chỉ huy nhóm đặc vụ thét to - Tôi sẽ tới nơi trong vòng mười lăm giây nữa! Omar cúi nhìn mớ tiền mà người đàn ông vừa đưa. Tờ tiền trên cùng rõ ràng là tờ mà họ viết vào. Nó có hình một ngôi sao Do Thái chồng lên dấu Quốc ấn Hoa Kỳ, những cánh sao trùng đúng vào các chữ cái ghép thành từ MASON (Hội Tam điểm). Bất chợt, có tiếng rung ù ù trỗi lên xung quanh, cứ như thể một chiếc máy kéo sắp đâm vào taxi của Omar. Anh ta ngước mắt nhìn, nhưng đường phố vắng tanh. Tiếng động cứ lớn dần rồi đột nhiên, một chiếc trực thăng đen bóng xuất hiện trong màn đêm và đáp xuống chính giữa tấm bản đồ của Quảng trường Tự Do. Một nhóm người mặc quần áo đen nhảy ào ra. Hầu hết chạy ngay về phía ga tàu điện ngầm, chỉ có một người hối hả tiến đến chỗ taxi của Omar. Anh ta giật mạnh cánh cửa bên.- Omar? Phải anh không?Omar gật đầu, không nói năng gì được.- Họ có cho anh biết họ đi đâu không? - anh ta hỏi.- Alexandria! Nhà ga King Street, - Omar thốt lên - Tôi đề nghị chở họ, nhưng…Họ có nói sẽ tới chỗ nào ở Alexandria không?- Không? Họ nhìn dấu Quốc ấn đúc đằng kia, sau đó họ hỏi về Alexandria, và trả tôi thứ này - Anh ta đưa cho đặc vụ CIA tờ tiền có hình vẽ kỳ lạ.Trong khi anh chàng đặc vụ săm soi tờ tiền, Omar đột nhiên chắp nối được tất cả mọi việc. Hội Tam điểm! Alexandria! Một trong những toà nhà nổi tiếng nhất của Hội Tam điểm ở Mỹ nằm tại Alexandria.- Chính chỗ đó, - anh ta thốt lên - Đài kỷ niệm George Washington? Nó nằm ngay bên kia Nhà ga King Street.- Đúng thế, - đội trưởng nhóm đặc vụ tán thành, rõ ràng cũng vừa nhận ra điều tương tự.Bấy giờ, nhóm đặc vụ ban nãy từ nhà ga chạy trở ra.- Chúng ta để sổng rồi? - một người nói to - Tuyến Xanh lam vừa khởi hành! Họ không còn dưới đó!Đặc vụ Simkins xem đồng hồ và quay sang phía Omar.- Tàu điện ngầm mất bao lâu tới được Alexandria?- Ít nhất mười phút. Có lẽ còn hơn.- Omar, anh làm tốt lắm. Cảm ơn anh.- Vâng. Chuyện này là sao vậy?Nhưng đặc vụ Simkins đã chạy trở lại chiếc trực thăng. Nó liệng về phía nam, ngang qua Đại lộ Pennsylvania, đoạn biến mất trong màn đêm. *** Ngay bên dưới đường phố nơi chiếc taxi đỗ, một đoàn tàu điện ngầm đang tăng tốc rời khỏi Quảng trường Tự Do. Trên tàu, Robert Langdon và Katherine Solomon ngồi nín thở, chẳng ai nói một lời trong khi đoàn tàu lao vút đi đưa họ tới đích đến.Chương 77Ký ức luôn tái hiện qua cùng một hình ảnh. Gã ngã… lao thẳng xuống dòng sông phủ kín băng dưới đáy vực sâu. Phía trên, đôi mắt xám lạnh lùng của Peter Solomon soi chằm chặp qua nòng súng của Andros. Gã rơi… thế giới phía trên cứ lùi xa dần, đến khi đám mây hơi nước mù mịt quanh dòng thác thượng nguồn trùm kín lấy gã thì vạn vật cùng biến mất. Trong khoảnh khắc, mọi thử trắng xoá, như thiên đường. Rồi thân thể gã nện thịch xuống lớp băng. Lạnh. Tối tăm. Đau đớn. Gã rũ người… một sức mạnh ghê gớm lôi gã đi và đẩy gã dúi dụi qua những tảng đá trong khoảng không giá buốt kinh hồn. Phổi gã rát bỏng do thiếu dưỡng khí, các cơ trên ngực đã co rút vì lạnh nên gã không tài nào hít thở nổi.Mình đang ở dưới lớp băng. Băng gần con thác rõ ràng là rất mỏng do dòng nước chảy xiết, nên Andros rơi xuyên qua cả lớp băng ấy, bị dòng nước cuốn đi, và giờ thì mắc kẹt dưới một lớp trần trong suốt. Gã bấu vào mặt dưới lớp băng, cố gắng phá vỡ nó nhưng thiếu điểm tựa. Cơn đau dữ dội từ vết thương trên vai đã tan biến, và cảm giác nhức buốt do viên đạn ghém gây ra cũng vậy, cả hai đều không còn do cơ thể gã đang tê cóng. Dòng nước chảy xiết xô Andros qua một khúc quanh. Cơ thể gã gào thét đòi dưỡng khí. Đột nhiên, gã vướng vào mấy cành cây, rồi húc phải một thân cây bị đổ. Xem nào! Gã cuống cuồng túm lấy cái cành, cố nhoi “lên mặt nước, tìm chỗ hổng nơi cành cây xuyên qua lớp băng. Khi đầu ngón tay sờ thấy một lỗ hổng nhỏ xíu xung quanh cành cây, gã bèn giật mạnh phần mép, cố gắng phá cho cái lỗ rộng hơn. Một lần, hai lần, chỗ hổng đã rộng ra đến vài phân. Tì người vào cành cây, Andros ngửa mặt lên và áp miệng vào lỗ hổng nhỏ xíu. Không khí mùa đông ùa vào phổi thật ấm áp, dòng dưỡng khí lại tiếp thêm hy vọng. Gã bấu chặt chân vào thân cây, huých mạnh lưng và vai lên phía trên. Lớp băng xung quanh thân cây đổ bị cành nhánh và mẩu vụn xuyên thủng, thành thử đã yếu đi nhiều, nay gã tì chân vào thân cây là có thể dùng đầu dùng vai húc vỡ lớp băng để nhoi lên màn đêm mùa đông. Không khí tràn vào phổi gã. Lúc ấy hầu như cả người vẫn còn chìm nghỉm dưới nước, gã bèn dưới dần lên, hết dùng hai chân đẩy lại dùng tay kéo, cuối cùng ra khỏi nước, gã nằm thở hổn hển trên lớp băng trần trụi. Andros gỡ tấm mặt nạ trượt tuyết ướt sũng, nhét vào túi, nhìn lại phía thượng nguồn tìm Peter Solomon, nhưng khúc quanh của dòng sông đã chắn mất tầm mắt. Cơn đau ở ngực lại dội lên, gã lặng lẽ kéo một cành cây nhỏ phủ kín lỗ hổng trên băng để che nó đi. Đến sáng, cái lỗ sẽ đóng băng trở lại. Andros loạng choạng tiến vào rừng, tuyết bắt đầu rơi. Gã không biết mình chạy bao xa, cuối cùng cũng ra khỏi rừng và leo lên bờ kè bên cạnh con đường nhựa. Bấy giờ tuyết rơi dày hơn, gã gần như hôn mê, thân nhiệt xuống rất thấp, vừa lúc một cặp đèn pha từ xa tiến tới. Andros vẫy tay rối rít, chiếc xe bán tải mang biến số Vermont lập tức đỗ lại. Một người đàn ông luống tuổi áo đỏ nhảy ra khỏi xe.Andros lảo đảo tiến lại phía ông ta, tay bịt chặt chỗ ngực đang chảy máu.- Tôi bị thợ săn… bắn nhầm! Tôi cần tới… bệnh viện!Không chút do dự, ông già giúp Andros leo lên ghế bên và bật máy sưởi.- Bệnh viện gần nhất ở đâu?Andros không biết, nhưng gã trỏ về phía nam.- Cửa rừng tiếp theo - Chúng ta sẽ không đến bênh viện. Ngày hôm sau, người ta đưa tin ông già Vermont nọ mất tích, nhưng không ai biết ông biến mất chỗ nào trên lộ trình của mình trong cơn bão tuyết mịt mùng. Cũng chẳng có ai liên hệ vụ mất tích ấy với một tin thời sự cùng lúc chạy trên trang nhất các báo - vụ sát hại Isabel Solomon. Khi tỉnh giấc. Andros thấy mình đang nằm trong phòng ngủ tồi tàn của một nhà nghỉ rẻ tiền bị bỏ không vì đang mùa giá rét. Gã nhớ là đã tìm cách đột nhập vào đây, xé ga trải giường băng vết thương, rồi chui vào một cái giường ọp ẹp dưới đống chăn bụi mù. Bụng đói ngấu. Andros tập tễnh lê tới phòng tắm, trông thấy cả đống mẩu đạn ghém máu me trong bồn rửa, mới lơ mơ nhớ rằng mình đã moi chúng ra khỏi lồng ngực. Gã nhướng mắt nhìn chiếc gương bẩn thỉu rồi từ từ gỡ lớp băng thấm máu để xem xét vết thương. Phần cơ rắn chắc ở ngực và bụng đã ngăn đạn ghém chui vào sâu hơn, nhưng tấm thân hoàn hảo trước đây giờ lỗ chỗ vết thương. Viên đạn duy nhất mà Peter Solomon bắn rõ ràng đã xuyên suốt bả vai gã, để lại một cái lỗ đẫm máu. Song tệ hơn hết thảy là Andros không lấy được thứ mà vì nó gã phải lặn lội cả quãng đường để tới Potomac. Cái kim tự tháp. Dạ dày cào cấu ghê gớm, gã đành lê bước ra chỗ xe ông già, hy vọng tìm được chút thức ăn. Chiếc xe bán tải bị phủ cả đống tuyết, và Andros tự hỏi không biết gã đã ngủ bao lâu trong cái nhà nghỉ cũ nát này. Ơn Chúa là mình còn tỉnh dậy. Andros không tìm thấy thức ăn ở ghế trước, nhưng trong hộc để đồ có vài viên thuốc giảm đau. Gã bốc một nắm và cố chiêu mấy vốc tuyết để nuốt trôi.Mình cần thức ăn. Vài giờ sau, chiếc xe bán tải chạy ra khỏi khu nhà nghỉ cũ. Trông nó chẳng còn dấu vết gì của chiếc xe tiến vào hai ngày trước đó. Mui ca bin đã bay mất, các nắp đậy bánh xe, ba đờ xốc và tất cả những thứ có thể tháo dỡ cũng chung số phận. Biển số Vermont không còn, và được thay bằng biển số của một chiếc xe tải bảo trì cũ đỗ cạnh thùng Dumpster(78) của nhà nghỉ. Andros cũng vứt hết vào Dumpster mấy tấm ga thấm máu, mảnh đạn ghém và mọi bằng chứng cho biết gã đã từng xuất hiện ở đây. Andros chưa từ bỏ cái kim tự tháp, nhưng tạm thời phải biết chờ đợi. Gã cần giấu mình, dưỡng lành vết thương và trên hết, cần ăn.Gã tìm được một quán ăn ven đường, gọi trứng, thịt nướng, bánh khoai tây và ba ly nước cam. Ăn xong, gã còn gọi thêm đồ ăn mang đi. Ra đường, Andros bật cái đài cũ rích trên xe để nghe. Gã đã kiêng xem truyền hình và đọc báo kể từ lúc bắt đầu thử thách này. Khi nghe đến bản tin thời sự địa phương, gã chết sững.- Các nhân viên điều tra của FBI tiếp tục tìm kiếm kẻ đột nhập có vũ trang đã sát hại bà Isabel Solomon tại tư gia ở Potomac hai hôm trước. Dường như kẻ sát nhân đã ngã xuống băng và bị cuốn trôi ra biển, - người đọc bản tin thông báo.Andros như hoá đá. Isabel Solomon đã chết? Gã lái xe trong im lặng sững sờ, vẫn lắng nghe cho hết bản tin.Bây giờ cần phải đi xa, thật xa khỏi nơi này. *** Căn hộ ở Upper West Side có tầm nhìn rất đẹp hướng ra Công viên Trung tâm. Andros chọn nơi này vì màu xanh lục mênh mông bên ngoài cửa sổ gợi gã nhớ lại khung cảnh vùng Adriatic. Lẽ ra nên lấy làm mừng vì đã sống sót, nhưng Andros không cảm thấy thế. Lòng gã luôn trống trải, và ý đồ đánh cắp kim tự tháp của Peter Solomon vẫn nung nấu không nguôi. Andros dành khá nhiều giờ nghiên cứu truyền thuyết Kim tự tháp Tam điểm. Hình như chẳng ai khẳng định được sự tồn tại của ngọn tháp đó nhưng tất cả đều nhất trí rằng nó hứa hẹn những tri thức và sức mạnh gớm ghê. Kim tự tháp Tam điểm là có thật.Andros tự nhủ.Thông tin tay trong của ta không thể sai được. Số phận đã đặt kim tự tháp vào tầm tay Andros, và gã biết rằng việc bỏ qua nó chẳng khác gì cầm một tấm vé số độc đắc mà không chịu đem đổi lấy tiền. Ta là kẻ duy nhất không phải hội viên Tam điểm biết rõ kim tự tháp là có thật… cũng như biết rõ người đang bảo vệ nó. Nhiều tháng qua đi, mặc dù cơ thể đã lành lặn lại nhưng Andros không còn tự mãn như lúc sinh sống ở Hy Lạp nữa. Gã ngừng luyện tập cũng thôi chiêm ngưỡng mình khoả thân trong gương. Gã cảm thấy dường như cơ thể đang lão hoá. Làn da từng rất hoàn hảo giờ đầy vết sẹo càng khiến gã thêm buồn nản. Gã vẫn ỷ lại vào thuốc giảm đau y như quãng thời gian đợi hồi phục, và cảm thấy cơ thể mình đang trượt ngược lại lối sống đã từng dẫn gã tới Nhà tù Soganlik. Gã không quan tâm. Thể xác thèm khát thứ gì thì cứ thoả mãn nó thấy.Một đêm, Andros tới làng Greenwich mua ma tuý của một thằng cha có xăm hình tia chớp dài ngoằn ngoèo trên cánh tay. Andros hỏi về hình xăm và tay kia cho biết hắn dùng nó để che vết sẹo dài do một vụ tai nạn xe hơi.- Hằng ngày, hễ nhìn vết sẹo là tao lại nhớ tới vụ tai nạn, - tên buôn ma tuý nói - tao bèn xăm đè một biểu tượng của sức mạnh cá nhân. Thế là tao trở lại cân bằng như trước.Đêm đó, trong cơn phê thuốc, Andros lảo đảo tìm tới một hiệu xăm trong vùng, và cởi phăng áo ra.- Tôi muốn che những vết sẹo này, - gã tuyên bố. Ta phải tự tin trở lại.- Che đi à? - Nghệ nhân xăm hình nhìn ngực gã - Bằng gì chứ?- Hình xăm.- Được nhưng ý tôi là hình xăm như thế nào?Andros nhún vai, chẳng muốn gì hơn là che giấu những thứ xấu xí gợi nhớ quá khứ của mình.- Tôi không biết. Ông chọn giúp đi.Nghệ nhân lắc đầu và đưa cho Andros một tập sách nói về truyền thống xăm mình cổ xưa.- Hãy trở lại khi nào anh sẵn sàng.Andros phát hiện ra năm mươi ba cuốn sách về xăm mình trong Thư viện Công cộng New York, gã đọc sạch số sách đó trong vài tuần. Tìm lại niềm say mê đọc sách, gã bắt đầu mang hàng ba lô sách đi đi về về giữa thư viện và căn hộ của mình, nơi gã đọc nghiến ngấu số sách ấy trong khi ngắm nhìn Công viên Trung tâm.Những cuốn sách về hình xăm đã mở ra một thế giới kỳ lạ mà Andros chưa bao giờ biết đến, một thế giới của biểu tượng, huyền bí, truyền thuyết và pháp thuật. Càng đọc, gã càng nhận ra mình thật mù quáng. Gã bắt đầu ghi chép các ý tưởng, mọi phác thảo và những giấc mơ lạ lùng của mình. Khi không còn tìm thấy những điều hữu ích ở thư viện nữa, gã bỏ tiền nhờ những người buôn sách quý mua giúp một số sách hiếm hoi trên thế giới. De Praestigiis Daemonum(79), Lemegeton(80). Ars Almadel(81)… Grimorium Verumb(82)… Ars Notoria(83) … vân vân. Andros đọc hết, và ngày càng tin chắc rằng thế giới vẫn có nhiều kho báu giành ình. Có những bí mật vượt xa hiểu biết của con người.Sau đó gã phát hiện ra tài liệu của Aleister Crowley, một nhân vật thần bí rất hiểu biết thời đầu thế kỷ XX nhưng lại bị nhà thờ coi là “kẻ xấu xa nhất từng sống trên đời”. Tư tưởng tầm thường luôn hãi sợ những tư tưởng vĩ đại Andros nghiên cứu sức mạnh của các nghi thức và bùa phép, học những từ ngữ thiêng liêng mà nếu nói ra đúng cách sẽ hiệu dụng như chìa khoá mở cánh cổng vào thế giới khác. Có một thế giới bí ẩn ngoài thế giới này… một thế giới có thể cho ta sức mạnh. Dù cực kỳ thèm khát nguồn sức mạnh đó, Andros vẫn biết rằng cần phải hoàn tất một số quy định và nhiệm vụ trước.Muốn biến thành thần thánh, phải làm cho chính mình trở nên linh thiêng, Crowley viết như vậy.Nghi thức “hiến tế” cổ xưa từng rất phổ biến trên Trái đất. Dân Do Thái đốt lễ vật tại Thánh điện, dân Maya chặt đầu người trên các đỉnh kim tự tháp ở Chichen Itza, rồi Jesus Christ hy sinh thân mình trên thập giá, những sự kiện này đều chứng tỏ người cổ đại rất hiểu yêu cầu hiến sinh của thần linh. Hiến sinh là nghi thức nguyên thuỷ để con người được tạo hoá ân tứ và làm cho chính mình trở thành thần thánh.Sacra - linh thiêng.Face - tạo dựng.Mặc dù nghi thức hiến sinh đã bị bãi bỏ từ lâu nhưng sức mạnh của nó vẫn còn nguyên vẹn. Có rất nhiều nhân vật huyền bí hiện đại, kể cả Aleister Crowley, vẫn thực hành Nghệ thuật này, hoàn thiện nó theo thời gian và dần dần biến cải bản thân cho cao siêu hơn. Andros thèm được thay đổi mình như họ. Nhưng gã biết gã sẽ phải vượt qua một cây cầu rất nguy hiểm khi làm việc đó.Máu chính là thứ tách biệt ánh sáng với bóng tối.Một đêm, có con quạ bay qua cửa sổ phòng tắm để ngỏ và bị kẹt lại trong căn hộ của Andros. Nó bay chập choạng lung tung một lát rồi đậu lại, rõ ràng chấp nhận thực tế là không thể thoát ra. Andros đã đủ kiến thức để nắm bắt tín hiệu. Ta đang được thúc giục phải tiến xa hơn.Tóm chặt con chim trên tay, gã đứng bên bàn thờ dựng tạm trong bếp và giơ cao con dao sắc, mồm đọc to câu thần chú mà gã nhớ.“Camiach, Eomiahe, Emial, Macbal, Emoii, Zazean… nhân danh những tên tuổi thần thánh nhất trong số các thiên thần ở Cuốn sách Assamaian(84) cầu khẩn các ngài phù hộ để con thực hiện việc này bằng sức mạnh của Một đức Chúa đích thực”.Sau đó Andros hạ dao xuống và thận trọng chọc vào mạch máu chính trên cánh bên phải của con chim đang hoảng sợ. Con quạ bắt đầu chảy máu. Nhìn dòng máu đỏ chảy xuống chiếc cốc kim loại, Andros hơi gai người. Thế nhưng, gã vẫn tiếp tục.“Đấng Adonai Toàn năng, Arathron, Ashai, Elohim, Elohim, Elion, Asher Eheieh, Shaddai… xin hỗ trợ con đem dòng máu này phát huy sức mạnh và hiệu quả ở tất cả những nơi con muốn, và ở tất cả những nơi con cần”.Đêm đó, Andros mơ thấy chim… một con phượng hoàng khổng lồ bay lên từ biển lửa. Sáng hôm sau gã thức giấc, cảm nhận trong người một nguồn năng lượng mới mẻ vô chừng. Gã chạy bộ trong công viên, nhanh hơn và xa hơn tưởng tượng. Chạy mệt rồi, gã dừng lại để tập chống đẩy. Không thể đếm được bao nhiêu lần. Vậy mà gã vẫn tràn trề sinh lực.Đêm đó, Andros lại mơ thấy chim phượng hoàng.Mùa thu quay về với Công viên Trung tâm, động vật nháo nhào tìm kiếm thức ăn ùa đông sắp tới. Andros không ngại lạnh, những cái bẫy được bố trí rất kín đáo của gã lúc nào cũng đầy ắp chuột và sóc còn sống. Gã cho chúng vào ba lô vác về nhà, thực hiện những nghi thức ngày càng phức tạp.Emanual, Massiach, Yod, He, Vaud… xin hãy nhìn nhận con là kẻ xứng đáng.Các nghi thức đẫm máu tiếp thêm sinh lực cho Andros, làm gã cảm thấy trẻ ra mỗi ngày. Gã tiếp tục đọc miệt mài những văn bản thần bí cổ xưa, những trường ca thời trung cổ, các triết gia sơ khai… Càng hiểu biết về bản chất đích thực của mọi vật, gã càng nhận ra rằng con người đã đánh mất toàn bộ hy vọng. Chúng mù quáng… lang thang vô định trong một thế giới mà chúng chẳng bao giờ hiểu nổi.Andros vẫn là một con người, nhưng gã cảm thấy mình đang tiến hoá thành một thứ gì đó khác. Vĩ đại hơn. Thiêng liêng hơn. Thể lực dồi dào của gã trỗi dậy sau một thời gian ngủ yên, thậm chí mạnh mẽ hơn trước nhiều. Cuối cùng gã cũng hiểu được mục đích thực sự của nó. Cơ thể này chính là chiếc thuyền chở trí tuệ -kho báu mạnh nhất của ta.Andros biết tiềm lực thật sự của mình vẫn chưa được phát huy, và gã nghiên cứu sâu hơn nữa. Số phận của ta là gi? Tất cả các văn bản cổ xưa đều nói đến cái thiện và cái ác… nói đến nhu cầu phải lựa chọn giữa hai thứ đó của con người. Mình đã lựa chọn lâu rồi, gã biết như vậy, nhưng gã không cảm thấy hối tiếc. Cái ác là gì nếu không phải là một quy luật tự nhiên? Hết ánh sáng là đến bóng tối. Hết trật tự là đến hỗn loạn. Entropy(85) là yếu tố căn bản. Mọi thứ đều phải suy tàn. Ngay cả tinh thể, dù có trật tự hoàn hảo đến đâu thì cuối cùng cũng biến thành phân tử bụi.Có kẻ sáng tạo… cũng có người phá huỷ.Song tới tận khi đọc cuốn “Thiên đường bị mất”(86) của John Milton thì Andros mới thấy rõ rệt số phận mình. Gã đọc về vị thần sa ngã, một chiến binh quỷ sứ đấu tranh chống lại ánh sáng, một nhân vật can đảm, một vị thần có tên Moloch.Moloch hạ phàm với tư thế thánh thần. Sau này Andros biết rằng, cái tên Moloch dịch sang ngôn ngữ cổ đại sẽ trở thành Mal’akh.Và ta cũng vậy.Như tất cả những biến cố lớn lao, quá trình thay đổi này cần bắt đầu với một lễ hiến sinh… nhưng không phải bằng chuột hay chim.Không, nó đòi hỏi một sự hiến sinh thật sự Chỉ có một sự hiến sinh đáng giá thôi.Đột nhiên, Andros thấy thông suốt hơn bất kỳ nhận thức nào trước kia. Toàn bộ số phận gã đã hiện lên rõ rệt. Suốt ba ngày liền, gã phác hoạ bản thân trên một tấm giấy lớn, để ra kết quả là hình ảnh tương lai của chính mình.Andros treo bức phác hoạ có kích thước thật lên tường và chăm chú ngắm nghía như thể soi gương.Ta là một kiệt tác.Ngày hôm sau, gã mang bức vẽ của mình tới cửa hàng xăm hình. Gã đã sẵn sàng. Chú thích:(78) Dumpster là tên gọi một loại dụng cụ chứa rác, một kiểu thùng chứa rác lưu động. Từ Dumpster xuất phát từ hệ thống Dempster-dumpster, do anh em nhà Dempster thiết kế những năm 1930, dùng để tự động bốc dọn toàn bộ rác trong các thùng chứa đã được chuẩn hoá lên các xe chở rác - ND.(79) De Praestigiis Daemonum et Incantationibus ac Venificiis(Cuốn sách về những hình ảnh của quỷ sứ, các câu thần chú và chất độc), viết năm 1563, là tác phẩm có ảnh hưởng nhất của Johannes Wier (1515-1588), nhà vật lý, nhà than bí học và nhà nghiên cứu ma quỷ người Hà Lan. Ông là một trong những người đầu tiên viết các tác phẩm lên án việc khủng bố giới phù thuỷ - ND.(80) Lemegeton, tên đầy đủ là Lesser Key of Solomon (Chìa khoá Solomon), là một bộ sách về ma thuật khuyết danh ở thế kỷ XVII và là một trong những bộ sách phổ biến nhất trong lĩnh vực này - ND.(81) Ars Almadel (Nghệ thuật Almadel) là phần thứ tư trong bộLesser Key of Solomon. Phần này nói về cách chế tạo almadel,một thẻ sáp có những biểu tượng bảo vệ vẽ bên trên dùng để đặt bốn cây nến. Ngoài ra còn có những chỉ dẫn liên quan đến màu sắc, chất liệu và nghi thức cần thiết để thiết lập almadel và các cây nến. Ars Almadel cũng nói về các thiên thần sẽ được gọi lên, và giải thích rằng chỉ được gọi đến họ vì những lý do hợp lý và đúng đắn, kèm theo cách khấn - ND.(82) Grimorium Verumb (Ma thuật đích thực hay Ma thuật chân lý), là một cuốn sách về ma thuật, được cho là do “Alibeck Người Ai Cập” sống ở Memphis viết năm 1517. Nhưng giới học giả nhất trí rằng cuốn sách thật sự có từ thế kỷ XVIII và những bản sách đầu tiên xuất hiện bằng tiếng Pháp và Italia - ND.(83) Ars Notoria (Nghệ thuật cao quý) là phần thứ năm và phần cuối cùng trong bộ Lesser Key of Solomon. Đây là cuốn sách ma thuật được biết đến từ thời Trung đại, khẳng định rằng nghệ thuật này do Đấng Sáng tạo truyền cho vua Solomon qua một thiên thần. Sách có hẳn một tập hợp các câu cầu nguyện kèm theo những từ ngữ thần chú bằng vài thứ tiếng (Do Thái, Hy Lạp, v.v…), cách đọc lên, và mối liên hệ giữa những nghi thức này với cách lĩnh hội tất cả các khoa học. Theo cuốn sách, đọc đúng các câu thần chú sẽ giúp đem lại kiến thức về khoa học, trí nhớ sáng suốt, tinh thần vững vàng, và khả năng hùng biện. Sách cũng trình bày những quy tắc phải tuân thủ để bảo đảm đạt kết quả tốt ND.(84) Cuốn sách Thiên đàng - ND.(85) Entropy được định nghĩa như là một đơn vị đo lường năng lượng trong mối tương quan với nhiệt độ tuyệt đối, hay là đơn vị đo sự phân tán đồng thời của năng lượng ở một nhiệt độ nhất định. Thuật ngữ này do nhà vật lý người Đức là Rudolí Clausius nghĩ ra năm 1865. Nguyên gốc, entropy được dùng để mô tả “nhiệt năng tiêu hao” từ các cỗ máy nhiệt hoặc các thiết bị cơ khí không có khả năng vận hành với hiệu suất 100% để chuyển hoá năng lượng. Về sau, thuật ngữ này có thêm nhiều cách giải thích khi con người hiểu thêm về hoạt động của các phân tử - ND.(86) Thiên đường bị mất (Paradise Lost) là một trường ca của nhà thơ người Anh John Milton ở thế kỷ XVII. Nguyên gốc, nó được xuất bản năm 1667, gồm 10 tập. Bản in lần hai năm 1674 chia lại thành 12 lập với đôi chỗ chỉnh lý và phần chú giải về luật thơ. Trường ca là câu chuyện về sự sa ngã của loài người: việc Adam và Eve bị quỷ Satan cám dỗ và bị trục xuất khỏi Vườn Địa đàng. Mục đích của Milton, như nêu trong Tập I, là “lý giải sự đối xử của Chúa với con người” và cuộc xung đột giữa mối lo vĩnh cửu với sự tự nguyện của Chúa - ND.Chương 78Đài tưởng niệm George Washington toạ lạc trên đỉnh đồi Shuter’s ở Alexandria, bang Virginia. Được chia thành ba cấp phân biệt Doric, Ionic và Corinthian với độ phức tạp về mặt kiến trúc tăng dần từ chân lên đến đỉnh, công trình đứng đó như một biểu tượng hữu hình cho con đường vươn tới tri thức của loài người. Lấy cảm hứng từ ngọn hải đăng Pharos ở Alexandria, Ai Cập, toà tháp đồ sộ này có chóp là một kim tự tháp Ai Cập với đỉnh chạm hình ngọn lửa. Bên trong gian phòng cẩm thạch hoa lệ là pho tượng đòng khổng lồ tái hiện George Washington trong bộ lễ phục của Hội Tam điểm cùng với cái bay thật mà ông dùng để xây viên đá đầu tiên cho Điện Capitol. Bên trên gian phòng này là chín tầng khác nhau được đặt những cái tên như Hang động, Phòng Hầm mộ, và Nhà nguyện Hiệp sĩ Thánh chiến. Trong số các báu vật được cất giữ tại đây có hơn hai vạn tập tài liệu của Hội Tam điểm, một bản sao chiếc hòm đựng Pháp điển, và thậm chí cả một mô hình thu nhỏ gian phòng đặt ngai vàng trong đền thờ vua Solomon. Chiếc trực thăng UH-60 bay là là phía trên sông Potomac, đặc vụ CIA Simkins xem đồng hồ. Sáu phút nữa tàu của họ mới đến.Anh ta thở hắt ra và ngó qua cửa sổ về phía Đài tưởng niệm sáng ngời ở phía chân trời. Anh phải thừa nhận rằng toà tháp rực rỡ kia trông ấn tượng chẳng kém bất kỳ công trình nào ở khu vực Công viên Quốc gia. Simkins chưa từng vào trong Đài tưởng niệm, và đêm nay cũng thế thôi. Nếu mọi việc diễn tiến theo đúng kế hoạch thì Robert Langdon và Katherine Solomon sẽ chẳng bao giờ bước ra được khỏi ga tàu điện ngầm.- Đằng kia! - Simkins quát bảo phi công, tay chỉ về ga King Street phía bên kia Đài tưởng niệm. Viên phi công cho trực thăng chao nghiêng và đậu xuống một bãi cỏ dưới chân đồi Shuter’s. Khách bộ hành ngạc nhiên khi thấy nhóm Simkins nhảy ra khỏi máy bay, lao nhanh qua phố xuống ga King Street. Tại khu vực cầu thang, một số hành khách chuẩn bị khởi hành phải nhảy vội ra khỏi lối đi dán mình vào tường khi nhóm đặc vụ mặc đồ đen rầm rập chạy qua họ. Nhà ga King Street lớn hơn Simkins dự đoán, phục vụ cả mấy tuyến khác nhau như tuyến Xanh lam, tuyến Vàng, tuyến Amtrak. Anh ta xem bản đồ hệ thống trên tường, tìm Quảng trường Tự Do và tuyến tàu điện ngầm trực tiếp chạy tới vị trí này.- Tuyến Xanh lam, sân ga phía nam! - Simkins hô lớn - Xuống đó và giải tán hết mọi người!Đồng đội anh ta vọt đi.Simkins chạy tới quầy vé, trình thẻ công vụ và nói như quát với người phụ nữ ngồi trong.- Mấy giờ thì chuyến tàu tiếp từ ga trung tâm mới đến?Người phụ nữ lộ vẻ hoảng sợ.- Tôi không chắc lắm. Cứ mười một phút có một chuyến của tuyến Xanh lam. Không có lịch trình cố định.- Từ chuyến tàu trước đến giờ là bao lâu rồi?- Năm… hoặc sáu phút? Chỉ khoảng thế thôi.Tunner nhẩm tính. Tuyệt. Chuyến tàu tiếp theo sẽ là của Langdon. *** Bên trong một toa tàu điện ngầm đang phóng rất nhanh. Katherine Solomon bồn chồn nhổm dậy trên chiếc ghế nhựa cứng. Mấy bóng đèn huỳnh quang sáng rực trên đầu khiến cô chói mắt, và cô đang phải cố kìm không để hai mí mắt sụp xuống, dù chỉ một giây thôi. Langdon ngồi cạnh cô trong toa xe vắng tanh, đờ đẫn nhìn chiếc túi da dưới chân, mí mắt cũng nặng trĩu, nhịp rung lắc đều đặn của toa xe như ru anh vào trạng thái mơ màng. Katherine hình dung ra những thứ lạ lùng trong túi Langdon. Tại sao CIA lại muốn giành lấy kim tự tháp này. Bellamy nói Sato truy lùng ngọn tháp có thể là do bà ta biết rõ tiềm năng thực sự của nó. Nhưng cho dù kim tự tháp thực sự tiết lộ nơi cất giấu những bí mật cổ xưa thì Katherine thấy cũng thật khó tin là điều đó hấp dẫn được CIA. Nhưng một lần nữa, cô nhắc nhở mình rằng đã nhiều lần người ta phát hiện ra CIA thực hiện những chương trình cận tâm lý học chẳng khác gì chủ nghĩa thần bí và ma thuật cổ xưa. Năm 1995, vụ bê bối “Stargate/scannate”(87) đã tiết lộ một công nghệ mật của CIA gọi là quan sát từ xa - một dạng suy tưởng ngoại cảm giúp người quan sát dõi con mắt tinh thần của mình tới bất kỳ nơi nào trên trái đất và theo dõi nơi đó mà không cần phải có mặt trực tiếp. Dĩ nhiên công nghệ này chẳng có gì mới mẻ. Giới thần bí gọi đó là du hành thiên thể(88) dự đoán… còn các tín đồ Du già thì gọi là trải nghiệm ngoại thân. Tiếc thay, các công dân Mỹ nhút nhát coi công nghệ đó là ngớ ngẩn, và chương trình bị đình chỉ. Ít nhất là về mặt công khai. Nực cười thay, Katherine lại nhận ra mối liên hệ đáng kể giữa những chương trình bất thành của CIA và các đột phá của riêng cô trong ngành Lý trí học. Katherine rất muốn gọi cho cảnh sát để xem họ đã phát hiện được gì ở khu Kalorama Heights, nhưng lúc này cô và Langdon đều không còn điện thoại, và việc liên lạc với giới chức sẽ là một sai lầm, chẳng thể biết Sato có thể vươn tay tới tận đâu. Kiên nhẫn nào, Katherine. Chỉ còn vài phút nữa, họ sẽ tới nơi ẩn náu an toàn, làm khách của một người đàn ông quả quyết rằng mình có câu trả lời ọi chuyện. Katherine hy vọng những câu trả lời của ông ta, cho dù là gì, sẽ giúp cô cứu được anh trai.- Robert? - cô thì thào, ngước nhìn bản đồ tàu điện ngầm - Trạm tiếp theo là của mình đấy.Langdon lờ đờ tỉnh lại.- Phải rồi, cảm ơn chị - Khi đoàn tàu sầm sập lao tới ga, anh gom chiếc túi và nhìn Katherine không mấy chắc chắn - Cứ hy vọng chúng ta đến nơi yên ổn. *** Lúc Tunner Simkins chạy tới nhập vào nhóm của mình, sân ga tàu điện ngầm đã được giải tán xong. Các đồng đội của anh ta toả rộng, trấn giữ vị trí phía sau dãy cột đỡ chạy dọc chiều dài sân ga. Có tiếng ầm ầm vọng tới từ đường hầm ở phía đầu kia của nhà ga. Khi âm thanh ấy to dần, Simkins cảm thấy làn không khí nóng nực cuộn lên xung quanh.Không thoát được đâu ông Langdon ạ.Simkins ngoảnh nhìn hai đặc vụ mà anh ta đã dặn theo sát mình.- Chuẩn bị sẵn thẻ công vụ và vũ khí đi. Loại tàu này là tàu tự động, nhưng vẫn có một trưởng tàu để mở cửa. Tìm anh ta nhé! Bấy giờ, đèn pha của đoàn tàu đã xuất hiện trong đường hầm, tiếng phanh rít lên trong không khí. Khi đoàn tàu ầm ầm lao tới ga và bắt đầu chạy chậm lại, Simkins cùng hai đặc vụ nhô ra, tay vẫy phù hiệu công vụ CIA và căng mắt cố tìm trưởng tàu trước khi anh ta mở tung các cửa. Đoàn tàu tiến lại gần rất nhanh. Trong toa thứ ba, Simkins đã nhìn thấy gương mặt đầy ngạc nhiên của viên trưởng tàu rõ ràng đang cố suy đoán tại sao ba người mặc đồ đen đều vẫy phù hiệu Công vụ với anh ta. Simkins chạy lại phía đoàn tàu lúc này đang sắp dừng hẳn.- CIA! - Simkins thét to, giơ thẻ của mình ra - KHÔNG được mở cửa!Đoàn tàu chầm chậm lướt qua, Simkins bước về phía toa của viên trưởng tàu, quát to.- Không được mở cửa tàu! Anh có hiểu không?! KHÔNG được mở cửa tàu!Đoàn tàu dừng hẳn lại, viên trưởng tàu mở to mắt, gật đầu lia lịa.- Có chuyện gì thế?! - anh ta hỏi qua cửa sổ hông.- Không cho tàu chạy vội, - Simkins nói - Và đừng mở tưng các cửa.- Được rồi.- Cho chúng tôi vào toa thứ nhất được không?Viên trưởng tàu gật đầu. Vẻ sợ hãi, anh ta bước ra khỏi tàu, khoá cửa lại, đoạn cùng Simkins và mấy đặc vụ kia tiến tới toa thứ nhất, rồi giơ tay mở cửa.- Khoá lại nhé. - Simkins nói và rút súng ra.Anh ta cùng hai đồng sự nhanh chóng bước vào toa xe thứ nhất. Viên trưởng tàu khoá cửa lại phía sau họ.Toà thứ nhất chỉ có bốn hành khách, ba cậu choai choai và một bà già, tất cả đều giật mình ngơ ngác khi nhìn thấy ba người đàn ông có vũ trang bước vào. Simkins giơ thẻ công vụ lên.- Không có vấn đề gì hết. Cứ ngồi nguyên tại chỗ.Simkins cùng người của anh ta bắt đầu tìm kiếm, dồn dần về phía cuối toa tàu đã khoá kín - đây là phương pháp “bóp thuốc đánh răng”, như cách gọi thời anh ta còn được đào tạo ở Farm. Tất cả hành khách lúc này đều ở trên tàu. Đi hết nửa toa tàu, nhóm đặc vụ vẫn chưa nhìn thấy ai có chút gì đó giống mô tả về Robert Langdon và Katherine Solomon. Tuy nhiên, Simkins còn rất tự tin. Trên toa không có chỗ nào để núp cả. Không phòng vệ sinh, không buồng kho, và không cả lối thoát thay thế. Cho dù mục tiêu có phát hiện việc họ lên tàu và chạy về phía sau thì cũng chẳng thoát ra nổi. Không thể cạy được cửa, mà Simkins cũng đã bố trí người đứng canh trên sân ga và cả hai đầu của đoàn tàu.Cứ kiên nhẫn.Tuy nhiên, lúc tiến vào toa thứ hai, Simkins bắt đầu bực mình. Ở toa tàu áp chót này chỉ có duy nhất một hành khách, một người Hoa.Simkins và nhóm đặc vụ tiến dần qua toa tàu, tìm kiếm bất kỳ chỗ nào khả dĩ ẩn náu. Không hề có.- Toa cuối, - Simkins nói, tay lăm lăm vũ khí và cùng hai đồng sự tiến về ngưỡng cửa toa cuối cùng của đoàn tàu. Vừa bước tới nơi, cả ba đã đứng sững lại, giương mắt lên trân trối.Quái quỷ…?! Simkins bước nhanh về phía cuối toa tàu trống trơn, tìm kiếm phía sau tất cả ghế ngồi rồi trở lại chỗ người của mình, máu như sôi lên. Bọn chúng biến đi đằng chó nào không biết?! Chú thích:(87) “Dự án Stargate” là mật danh của một trong những nghiên cứu do Chính phủ Hoa Kỳ tiến hành từ năm 1972 đến 1995, nhằm mục đích điều tra khả năng sử dụng các năng lực tâm thần trong các chiến thuật quân sự - ND.(88) Du hành thiên thể là một cách hiểu mang tính bí truyền về bất kỳ dạng trải nghiệm ngoài cơ thể nào thừa nhận sự tồn tại của một “thiên thể” tách biệt với nhục thể và có khả năng thoát ra khỏi nhục thể đó. Du hành thiên thể mô tả việc thiên thể rời khỏi nhục thể để du hành trong thiên hà - ND. Quảng trường Tự Do là một tấm bản đồ. Nằm ở góc Đại lộ Pennsylvania giao với Phố 13, bề mặt lát đá rộng mênh mông của khu vực này tái hiện đường phố Washington đúng như thiết kế nguyên bản của Pierre L’Enfant. Quảng trường Tự Do là điểm đến quen thuộc của khách du lịch, không chỉ vì tấm bản đồ khổng lồ thú vị mà còn vì luật sư Martin Luther Kinh Jr., từng viết phần lớn bài phát biểu “Tôi có một giấc mơ” tại Khách sạn Willard gần đó. Tên quảng trường được đặt lại cũng là để tôn vinh ông. Omar Amirana chở du khách tới Quảng trường Tự Do đã rất nhiều lần, nhưng hai hành khách tối nay rõ ràng không phải là người tham quan thông thường. CIA đang truy lùng họ? Omar chưa kịp đỗ lại bên lề thì hai người ấy đã nhảy ra.- Chờ ở đây nhé! - người đàn ông mặc chiếc áo khoác vải thô dặn Omar - Chúng tôi sẽ quay lại ngay!Dứt lời, họ chạy vội ra chỗ tấm bản đồ khổng lồ, vừa quan sát hình các đường phố giao cắt nhau, vừa chỉ trỏ trao đổi. Omar nhìn theo, rồi vớ lấy điện thoại di động chỗ bảng điều khiển.- A lô, ông vẫn còn đó chứ?- Phải! - một giọng quát to, rất khó nghe do tiếng ầm ầm bên phía anh ta - Giờ họ ở đâu?- Đã ra chỗ tấm bản đồ. Hình như đang tìm kiếm gì đó.- Đừng để họ thoát khỏi tầm mắt anh, - đặc vụ kia hét to - Tôi sắp đến nơi rồi!Omar tiếp tục theo dõi. Hai kẻ bị truy đuổi nhanh chóng tìm được dấu Quốc ấn nổi tiếng, một trong những tấm huy chương bằng đồng lớn nhất trên đời. Họ nấn ná ở đó chốc lát rồi trỏ về phía tây nam. Người đàn ông mặc áo vải tuýt chạy bổ trở lại taxi. Thấy anh ta hổn hển lao đến nơi, Omar nhanh chóng bỏ điện thoại xuống.- Hướng nào đi Alexandria, Virginia? - anh ta hỏi.- Alexandria à? - Omar chỉ về tây nam, đúng hướng mà hai người khách vừa trỏ lúc nãy.- Tôi hiểu rồi! - người đàn ông lào phào, vẫn thở hồng hộc, đoạn xoay ra hét to với người phụ nữ - Chị nói đúng! Alexandria!Giờ người phụ nữ lại trỏ ngang quảng trường tới tấm biển “Tàu điện ngầm”, sáng rực gần đó.- Tuyến Xanh lam chạy thẳng tới Alexandria. Chúng ta cần đến ga King Street!Omar phát hoảng. Ôi không.Người đàn ông quay lại trả tiền cho Omar, trả nhiều hơn cả cuốc xe.- Cảm ơn. Chúng tôi đi đây - Anh ta vớ lấy tôi da và nhấc chân chạy.- Đợi chút! Tôi có thể chở các vị! Tôi thường xuyên đến đấy!Nhưng đã quá muộn. Người đàn ông và người phụ nữ mau chóng băng qua Quảng trường Tự Do, khuất dạng trên cầu thang dẫn xuống ga tàu điện ngầm Metro Center.Omar vớ lấy điện thoại di động.- Thưa ông! Họ xuống lối tàu điện ngầm. Tôi không ngăn được. Họ sẽ đón tàu Tuyến Xanh lam để đến Alexandria!- Cứ ở nguyên tại chỗ! - Chỉ huy nhóm đặc vụ thét to - Tôi sẽ tới nơi trong vòng mười lăm giây nữa! Omar cúi nhìn mớ tiền mà người đàn ông vừa đưa. Tờ tiền trên cùng rõ ràng là tờ mà họ viết vào. Nó có hình một ngôi sao Do Thái chồng lên dấu Quốc ấn Hoa Kỳ, những cánh sao trùng đúng vào các chữ cái ghép thành từ MASON (Hội Tam điểm). Bất chợt, có tiếng rung ù ù trỗi lên xung quanh, cứ như thể một chiếc máy kéo sắp đâm vào taxi của Omar. Anh ta ngước mắt nhìn, nhưng đường phố vắng tanh. Tiếng động cứ lớn dần rồi đột nhiên, một chiếc trực thăng đen bóng xuất hiện trong màn đêm và đáp xuống chính giữa tấm bản đồ của Quảng trường Tự Do. Một nhóm người mặc quần áo đen nhảy ào ra. Hầu hết chạy ngay về phía ga tàu điện ngầm, chỉ có một người hối hả tiến đến chỗ taxi của Omar. Anh ta giật mạnh cánh cửa bên.- Omar? Phải anh không?Omar gật đầu, không nói năng gì được.- Họ có cho anh biết họ đi đâu không? - anh ta hỏi.- Alexandria! Nhà ga King Street, - Omar thốt lên - Tôi đề nghị chở họ, nhưng…Họ có nói sẽ tới chỗ nào ở Alexandria không?- Không? Họ nhìn dấu Quốc ấn đúc đằng kia, sau đó họ hỏi về Alexandria, và trả tôi thứ này - Anh ta đưa cho đặc vụ CIA tờ tiền có hình vẽ kỳ lạ.Trong khi anh chàng đặc vụ săm soi tờ tiền, Omar đột nhiên chắp nối được tất cả mọi việc. Hội Tam điểm! Alexandria! Một trong những toà nhà nổi tiếng nhất của Hội Tam điểm ở Mỹ nằm tại Alexandria.- Chính chỗ đó, - anh ta thốt lên - Đài kỷ niệm George Washington? Nó nằm ngay bên kia Nhà ga King Street.- Đúng thế, - đội trưởng nhóm đặc vụ tán thành, rõ ràng cũng vừa nhận ra điều tương tự.Bấy giờ, nhóm đặc vụ ban nãy từ nhà ga chạy trở ra.- Chúng ta để sổng rồi? - một người nói to - Tuyến Xanh lam vừa khởi hành! Họ không còn dưới đó!Đặc vụ Simkins xem đồng hồ và quay sang phía Omar.- Tàu điện ngầm mất bao lâu tới được Alexandria?- Ít nhất mười phút. Có lẽ còn hơn.- Omar, anh làm tốt lắm. Cảm ơn anh.- Vâng. Chuyện này là sao vậy?Nhưng đặc vụ Simkins đã chạy trở lại chiếc trực thăng. Nó liệng về phía nam, ngang qua Đại lộ Pennsylvania, đoạn biến mất trong màn đêm. *** Ngay bên dưới đường phố nơi chiếc taxi đỗ, một đoàn tàu điện ngầm đang tăng tốc rời khỏi Quảng trường Tự Do. Trên tàu, Robert Langdon và Katherine Solomon ngồi nín thở, chẳng ai nói một lời trong khi đoàn tàu lao vút đi đưa họ tới đích đến.Chương 77Ký ức luôn tái hiện qua cùng một hình ảnh. Gã ngã… lao thẳng xuống dòng sông phủ kín băng dưới đáy vực sâu. Phía trên, đôi mắt xám lạnh lùng của Peter Solomon soi chằm chặp qua nòng súng của Andros. Gã rơi… thế giới phía trên cứ lùi xa dần, đến khi đám mây hơi nước mù mịt quanh dòng thác thượng nguồn trùm kín lấy gã thì vạn vật cùng biến mất. Trong khoảnh khắc, mọi thử trắng xoá, như thiên đường. Rồi thân thể gã nện thịch xuống lớp băng. Lạnh. Tối tăm. Đau đớn. Gã rũ người… một sức mạnh ghê gớm lôi gã đi và đẩy gã dúi dụi qua những tảng đá trong khoảng không giá buốt kinh hồn. Phổi gã rát bỏng do thiếu dưỡng khí, các cơ trên ngực đã co rút vì lạnh nên gã không tài nào hít thở nổi.Mình đang ở dưới lớp băng. Băng gần con thác rõ ràng là rất mỏng do dòng nước chảy xiết, nên Andros rơi xuyên qua cả lớp băng ấy, bị dòng nước cuốn đi, và giờ thì mắc kẹt dưới một lớp trần trong suốt. Gã bấu vào mặt dưới lớp băng, cố gắng phá vỡ nó nhưng thiếu điểm tựa. Cơn đau dữ dội từ vết thương trên vai đã tan biến, và cảm giác nhức buốt do viên đạn ghém gây ra cũng vậy, cả hai đều không còn do cơ thể gã đang tê cóng. Dòng nước chảy xiết xô Andros qua một khúc quanh. Cơ thể gã gào thét đòi dưỡng khí. Đột nhiên, gã vướng vào mấy cành cây, rồi húc phải một thân cây bị đổ. Xem nào! Gã cuống cuồng túm lấy cái cành, cố nhoi “lên mặt nước, tìm chỗ hổng nơi cành cây xuyên qua lớp băng. Khi đầu ngón tay sờ thấy một lỗ hổng nhỏ xíu xung quanh cành cây, gã bèn giật mạnh phần mép, cố gắng phá cho cái lỗ rộng hơn. Một lần, hai lần, chỗ hổng đã rộng ra đến vài phân. Tì người vào cành cây, Andros ngửa mặt lên và áp miệng vào lỗ hổng nhỏ xíu. Không khí mùa đông ùa vào phổi thật ấm áp, dòng dưỡng khí lại tiếp thêm hy vọng. Gã bấu chặt chân vào thân cây, huých mạnh lưng và vai lên phía trên. Lớp băng xung quanh thân cây đổ bị cành nhánh và mẩu vụn xuyên thủng, thành thử đã yếu đi nhiều, nay gã tì chân vào thân cây là có thể dùng đầu dùng vai húc vỡ lớp băng để nhoi lên màn đêm mùa đông. Không khí tràn vào phổi gã. Lúc ấy hầu như cả người vẫn còn chìm nghỉm dưới nước, gã bèn dưới dần lên, hết dùng hai chân đẩy lại dùng tay kéo, cuối cùng ra khỏi nước, gã nằm thở hổn hển trên lớp băng trần trụi. Andros gỡ tấm mặt nạ trượt tuyết ướt sũng, nhét vào túi, nhìn lại phía thượng nguồn tìm Peter Solomon, nhưng khúc quanh của dòng sông đã chắn mất tầm mắt. Cơn đau ở ngực lại dội lên, gã lặng lẽ kéo một cành cây nhỏ phủ kín lỗ hổng trên băng để che nó đi. Đến sáng, cái lỗ sẽ đóng băng trở lại. Andros loạng choạng tiến vào rừng, tuyết bắt đầu rơi. Gã không biết mình chạy bao xa, cuối cùng cũng ra khỏi rừng và leo lên bờ kè bên cạnh con đường nhựa. Bấy giờ tuyết rơi dày hơn, gã gần như hôn mê, thân nhiệt xuống rất thấp, vừa lúc một cặp đèn pha từ xa tiến tới. Andros vẫy tay rối rít, chiếc xe bán tải mang biến số Vermont lập tức đỗ lại. Một người đàn ông luống tuổi áo đỏ nhảy ra khỏi xe.Andros lảo đảo tiến lại phía ông ta, tay bịt chặt chỗ ngực đang chảy máu.- Tôi bị thợ săn… bắn nhầm! Tôi cần tới… bệnh viện!Không chút do dự, ông già giúp Andros leo lên ghế bên và bật máy sưởi.- Bệnh viện gần nhất ở đâu?Andros không biết, nhưng gã trỏ về phía nam.- Cửa rừng tiếp theo - Chúng ta sẽ không đến bênh viện. Ngày hôm sau, người ta đưa tin ông già Vermont nọ mất tích, nhưng không ai biết ông biến mất chỗ nào trên lộ trình của mình trong cơn bão tuyết mịt mùng. Cũng chẳng có ai liên hệ vụ mất tích ấy với một tin thời sự cùng lúc chạy trên trang nhất các báo - vụ sát hại Isabel Solomon. Khi tỉnh giấc. Andros thấy mình đang nằm trong phòng ngủ tồi tàn của một nhà nghỉ rẻ tiền bị bỏ không vì đang mùa giá rét. Gã nhớ là đã tìm cách đột nhập vào đây, xé ga trải giường băng vết thương, rồi chui vào một cái giường ọp ẹp dưới đống chăn bụi mù. Bụng đói ngấu. Andros tập tễnh lê tới phòng tắm, trông thấy cả đống mẩu đạn ghém máu me trong bồn rửa, mới lơ mơ nhớ rằng mình đã moi chúng ra khỏi lồng ngực. Gã nhướng mắt nhìn chiếc gương bẩn thỉu rồi từ từ gỡ lớp băng thấm máu để xem xét vết thương. Phần cơ rắn chắc ở ngực và bụng đã ngăn đạn ghém chui vào sâu hơn, nhưng tấm thân hoàn hảo trước đây giờ lỗ chỗ vết thương. Viên đạn duy nhất mà Peter Solomon bắn rõ ràng đã xuyên suốt bả vai gã, để lại một cái lỗ đẫm máu. Song tệ hơn hết thảy là Andros không lấy được thứ mà vì nó gã phải lặn lội cả quãng đường để tới Potomac. Cái kim tự tháp. Dạ dày cào cấu ghê gớm, gã đành lê bước ra chỗ xe ông già, hy vọng tìm được chút thức ăn. Chiếc xe bán tải bị phủ cả đống tuyết, và Andros tự hỏi không biết gã đã ngủ bao lâu trong cái nhà nghỉ cũ nát này. Ơn Chúa là mình còn tỉnh dậy. Andros không tìm thấy thức ăn ở ghế trước, nhưng trong hộc để đồ có vài viên thuốc giảm đau. Gã bốc một nắm và cố chiêu mấy vốc tuyết để nuốt trôi.Mình cần thức ăn. Vài giờ sau, chiếc xe bán tải chạy ra khỏi khu nhà nghỉ cũ. Trông nó chẳng còn dấu vết gì của chiếc xe tiến vào hai ngày trước đó. Mui ca bin đã bay mất, các nắp đậy bánh xe, ba đờ xốc và tất cả những thứ có thể tháo dỡ cũng chung số phận. Biển số Vermont không còn, và được thay bằng biển số của một chiếc xe tải bảo trì cũ đỗ cạnh thùng Dumpster(78) của nhà nghỉ. Andros cũng vứt hết vào Dumpster mấy tấm ga thấm máu, mảnh đạn ghém và mọi bằng chứng cho biết gã đã từng xuất hiện ở đây. Andros chưa từ bỏ cái kim tự tháp, nhưng tạm thời phải biết chờ đợi. Gã cần giấu mình, dưỡng lành vết thương và trên hết, cần ăn.Gã tìm được một quán ăn ven đường, gọi trứng, thịt nướng, bánh khoai tây và ba ly nước cam. Ăn xong, gã còn gọi thêm đồ ăn mang đi. Ra đường, Andros bật cái đài cũ rích trên xe để nghe. Gã đã kiêng xem truyền hình và đọc báo kể từ lúc bắt đầu thử thách này. Khi nghe đến bản tin thời sự địa phương, gã chết sững.- Các nhân viên điều tra của FBI tiếp tục tìm kiếm kẻ đột nhập có vũ trang đã sát hại bà Isabel Solomon tại tư gia ở Potomac hai hôm trước. Dường như kẻ sát nhân đã ngã xuống băng và bị cuốn trôi ra biển, - người đọc bản tin thông báo.Andros như hoá đá. Isabel Solomon đã chết? Gã lái xe trong im lặng sững sờ, vẫn lắng nghe cho hết bản tin.Bây giờ cần phải đi xa, thật xa khỏi nơi này. *** Căn hộ ở Upper West Side có tầm nhìn rất đẹp hướng ra Công viên Trung tâm. Andros chọn nơi này vì màu xanh lục mênh mông bên ngoài cửa sổ gợi gã nhớ lại khung cảnh vùng Adriatic. Lẽ ra nên lấy làm mừng vì đã sống sót, nhưng Andros không cảm thấy thế. Lòng gã luôn trống trải, và ý đồ đánh cắp kim tự tháp của Peter Solomon vẫn nung nấu không nguôi. Andros dành khá nhiều giờ nghiên cứu truyền thuyết Kim tự tháp Tam điểm. Hình như chẳng ai khẳng định được sự tồn tại của ngọn tháp đó nhưng tất cả đều nhất trí rằng nó hứa hẹn những tri thức và sức mạnh gớm ghê. Kim tự tháp Tam điểm là có thật.Andros tự nhủ.Thông tin tay trong của ta không thể sai được. Số phận đã đặt kim tự tháp vào tầm tay Andros, và gã biết rằng việc bỏ qua nó chẳng khác gì cầm một tấm vé số độc đắc mà không chịu đem đổi lấy tiền. Ta là kẻ duy nhất không phải hội viên Tam điểm biết rõ kim tự tháp là có thật… cũng như biết rõ người đang bảo vệ nó. Nhiều tháng qua đi, mặc dù cơ thể đã lành lặn lại nhưng Andros không còn tự mãn như lúc sinh sống ở Hy Lạp nữa. Gã ngừng luyện tập cũng thôi chiêm ngưỡng mình khoả thân trong gương. Gã cảm thấy dường như cơ thể đang lão hoá. Làn da từng rất hoàn hảo giờ đầy vết sẹo càng khiến gã thêm buồn nản. Gã vẫn ỷ lại vào thuốc giảm đau y như quãng thời gian đợi hồi phục, và cảm thấy cơ thể mình đang trượt ngược lại lối sống đã từng dẫn gã tới Nhà tù Soganlik. Gã không quan tâm. Thể xác thèm khát thứ gì thì cứ thoả mãn nó thấy.Một đêm, Andros tới làng Greenwich mua ma tuý của một thằng cha có xăm hình tia chớp dài ngoằn ngoèo trên cánh tay. Andros hỏi về hình xăm và tay kia cho biết hắn dùng nó để che vết sẹo dài do một vụ tai nạn xe hơi.- Hằng ngày, hễ nhìn vết sẹo là tao lại nhớ tới vụ tai nạn, - tên buôn ma tuý nói - tao bèn xăm đè một biểu tượng của sức mạnh cá nhân. Thế là tao trở lại cân bằng như trước.Đêm đó, trong cơn phê thuốc, Andros lảo đảo tìm tới một hiệu xăm trong vùng, và cởi phăng áo ra.- Tôi muốn che những vết sẹo này, - gã tuyên bố. Ta phải tự tin trở lại.- Che đi à? - Nghệ nhân xăm hình nhìn ngực gã - Bằng gì chứ?- Hình xăm.- Được nhưng ý tôi là hình xăm như thế nào?Andros nhún vai, chẳng muốn gì hơn là che giấu những thứ xấu xí gợi nhớ quá khứ của mình.- Tôi không biết. Ông chọn giúp đi.Nghệ nhân lắc đầu và đưa cho Andros một tập sách nói về truyền thống xăm mình cổ xưa.- Hãy trở lại khi nào anh sẵn sàng.Andros phát hiện ra năm mươi ba cuốn sách về xăm mình trong Thư viện Công cộng New York, gã đọc sạch số sách đó trong vài tuần. Tìm lại niềm say mê đọc sách, gã bắt đầu mang hàng ba lô sách đi đi về về giữa thư viện và căn hộ của mình, nơi gã đọc nghiến ngấu số sách ấy trong khi ngắm nhìn Công viên Trung tâm.Những cuốn sách về hình xăm đã mở ra một thế giới kỳ lạ mà Andros chưa bao giờ biết đến, một thế giới của biểu tượng, huyền bí, truyền thuyết và pháp thuật. Càng đọc, gã càng nhận ra mình thật mù quáng. Gã bắt đầu ghi chép các ý tưởng, mọi phác thảo và những giấc mơ lạ lùng của mình. Khi không còn tìm thấy những điều hữu ích ở thư viện nữa, gã bỏ tiền nhờ những người buôn sách quý mua giúp một số sách hiếm hoi trên thế giới. De Praestigiis Daemonum(79), Lemegeton(80). Ars Almadel(81)… Grimorium Verumb(82)… Ars Notoria(83) … vân vân. Andros đọc hết, và ngày càng tin chắc rằng thế giới vẫn có nhiều kho báu giành ình. Có những bí mật vượt xa hiểu biết của con người.Sau đó gã phát hiện ra tài liệu của Aleister Crowley, một nhân vật thần bí rất hiểu biết thời đầu thế kỷ XX nhưng lại bị nhà thờ coi là “kẻ xấu xa nhất từng sống trên đời”. Tư tưởng tầm thường luôn hãi sợ những tư tưởng vĩ đại Andros nghiên cứu sức mạnh của các nghi thức và bùa phép, học những từ ngữ thiêng liêng mà nếu nói ra đúng cách sẽ hiệu dụng như chìa khoá mở cánh cổng vào thế giới khác. Có một thế giới bí ẩn ngoài thế giới này… một thế giới có thể cho ta sức mạnh. Dù cực kỳ thèm khát nguồn sức mạnh đó, Andros vẫn biết rằng cần phải hoàn tất một số quy định và nhiệm vụ trước.Muốn biến thành thần thánh, phải làm cho chính mình trở nên linh thiêng, Crowley viết như vậy.Nghi thức “hiến tế” cổ xưa từng rất phổ biến trên Trái đất. Dân Do Thái đốt lễ vật tại Thánh điện, dân Maya chặt đầu người trên các đỉnh kim tự tháp ở Chichen Itza, rồi Jesus Christ hy sinh thân mình trên thập giá, những sự kiện này đều chứng tỏ người cổ đại rất hiểu yêu cầu hiến sinh của thần linh. Hiến sinh là nghi thức nguyên thuỷ để con người được tạo hoá ân tứ và làm cho chính mình trở thành thần thánh.Sacra - linh thiêng.Face - tạo dựng.Mặc dù nghi thức hiến sinh đã bị bãi bỏ từ lâu nhưng sức mạnh của nó vẫn còn nguyên vẹn. Có rất nhiều nhân vật huyền bí hiện đại, kể cả Aleister Crowley, vẫn thực hành Nghệ thuật này, hoàn thiện nó theo thời gian và dần dần biến cải bản thân cho cao siêu hơn. Andros thèm được thay đổi mình như họ. Nhưng gã biết gã sẽ phải vượt qua một cây cầu rất nguy hiểm khi làm việc đó.Máu chính là thứ tách biệt ánh sáng với bóng tối.Một đêm, có con quạ bay qua cửa sổ phòng tắm để ngỏ và bị kẹt lại trong căn hộ của Andros. Nó bay chập choạng lung tung một lát rồi đậu lại, rõ ràng chấp nhận thực tế là không thể thoát ra. Andros đã đủ kiến thức để nắm bắt tín hiệu. Ta đang được thúc giục phải tiến xa hơn.Tóm chặt con chim trên tay, gã đứng bên bàn thờ dựng tạm trong bếp và giơ cao con dao sắc, mồm đọc to câu thần chú mà gã nhớ.“Camiach, Eomiahe, Emial, Macbal, Emoii, Zazean… nhân danh những tên tuổi thần thánh nhất trong số các thiên thần ở Cuốn sách Assamaian(84) cầu khẩn các ngài phù hộ để con thực hiện việc này bằng sức mạnh của Một đức Chúa đích thực”.Sau đó Andros hạ dao xuống và thận trọng chọc vào mạch máu chính trên cánh bên phải của con chim đang hoảng sợ. Con quạ bắt đầu chảy máu. Nhìn dòng máu đỏ chảy xuống chiếc cốc kim loại, Andros hơi gai người. Thế nhưng, gã vẫn tiếp tục.“Đấng Adonai Toàn năng, Arathron, Ashai, Elohim, Elohim, Elion, Asher Eheieh, Shaddai… xin hỗ trợ con đem dòng máu này phát huy sức mạnh và hiệu quả ở tất cả những nơi con muốn, và ở tất cả những nơi con cần”.Đêm đó, Andros mơ thấy chim… một con phượng hoàng khổng lồ bay lên từ biển lửa. Sáng hôm sau gã thức giấc, cảm nhận trong người một nguồn năng lượng mới mẻ vô chừng. Gã chạy bộ trong công viên, nhanh hơn và xa hơn tưởng tượng. Chạy mệt rồi, gã dừng lại để tập chống đẩy. Không thể đếm được bao nhiêu lần. Vậy mà gã vẫn tràn trề sinh lực.Đêm đó, Andros lại mơ thấy chim phượng hoàng.Mùa thu quay về với Công viên Trung tâm, động vật nháo nhào tìm kiếm thức ăn ùa đông sắp tới. Andros không ngại lạnh, những cái bẫy được bố trí rất kín đáo của gã lúc nào cũng đầy ắp chuột và sóc còn sống. Gã cho chúng vào ba lô vác về nhà, thực hiện những nghi thức ngày càng phức tạp.Emanual, Massiach, Yod, He, Vaud… xin hãy nhìn nhận con là kẻ xứng đáng.Các nghi thức đẫm máu tiếp thêm sinh lực cho Andros, làm gã cảm thấy trẻ ra mỗi ngày. Gã tiếp tục đọc miệt mài những văn bản thần bí cổ xưa, những trường ca thời trung cổ, các triết gia sơ khai… Càng hiểu biết về bản chất đích thực của mọi vật, gã càng nhận ra rằng con người đã đánh mất toàn bộ hy vọng. Chúng mù quáng… lang thang vô định trong một thế giới mà chúng chẳng bao giờ hiểu nổi.Andros vẫn là một con người, nhưng gã cảm thấy mình đang tiến hoá thành một thứ gì đó khác. Vĩ đại hơn. Thiêng liêng hơn. Thể lực dồi dào của gã trỗi dậy sau một thời gian ngủ yên, thậm chí mạnh mẽ hơn trước nhiều. Cuối cùng gã cũng hiểu được mục đích thực sự của nó. Cơ thể này chính là chiếc thuyền chở trí tuệ -kho báu mạnh nhất của ta.Andros biết tiềm lực thật sự của mình vẫn chưa được phát huy, và gã nghiên cứu sâu hơn nữa. Số phận của ta là gi? Tất cả các văn bản cổ xưa đều nói đến cái thiện và cái ác… nói đến nhu cầu phải lựa chọn giữa hai thứ đó của con người. Mình đã lựa chọn lâu rồi, gã biết như vậy, nhưng gã không cảm thấy hối tiếc. Cái ác là gì nếu không phải là một quy luật tự nhiên? Hết ánh sáng là đến bóng tối. Hết trật tự là đến hỗn loạn. Entropy(85) là yếu tố căn bản. Mọi thứ đều phải suy tàn. Ngay cả tinh thể, dù có trật tự hoàn hảo đến đâu thì cuối cùng cũng biến thành phân tử bụi.Có kẻ sáng tạo… cũng có người phá huỷ.Song tới tận khi đọc cuốn “Thiên đường bị mất”(86) của John Milton thì Andros mới thấy rõ rệt số phận mình. Gã đọc về vị thần sa ngã, một chiến binh quỷ sứ đấu tranh chống lại ánh sáng, một nhân vật can đảm, một vị thần có tên Moloch.Moloch hạ phàm với tư thế thánh thần. Sau này Andros biết rằng, cái tên Moloch dịch sang ngôn ngữ cổ đại sẽ trở thành Mal’akh.Và ta cũng vậy.Như tất cả những biến cố lớn lao, quá trình thay đổi này cần bắt đầu với một lễ hiến sinh… nhưng không phải bằng chuột hay chim.Không, nó đòi hỏi một sự hiến sinh thật sự Chỉ có một sự hiến sinh đáng giá thôi.Đột nhiên, Andros thấy thông suốt hơn bất kỳ nhận thức nào trước kia. Toàn bộ số phận gã đã hiện lên rõ rệt. Suốt ba ngày liền, gã phác hoạ bản thân trên một tấm giấy lớn, để ra kết quả là hình ảnh tương lai của chính mình.Andros treo bức phác hoạ có kích thước thật lên tường và chăm chú ngắm nghía như thể soi gương.Ta là một kiệt tác.Ngày hôm sau, gã mang bức vẽ của mình tới cửa hàng xăm hình. Gã đã sẵn sàng. Chú thích:(78) Dumpster là tên gọi một loại dụng cụ chứa rác, một kiểu thùng chứa rác lưu động. Từ Dumpster xuất phát từ hệ thống Dempster-dumpster, do anh em nhà Dempster thiết kế những năm 1930, dùng để tự động bốc dọn toàn bộ rác trong các thùng chứa đã được chuẩn hoá lên các xe chở rác - ND.(79) De Praestigiis Daemonum et Incantationibus ac Venificiis(Cuốn sách về những hình ảnh của quỷ sứ, các câu thần chú và chất độc), viết năm 1563, là tác phẩm có ảnh hưởng nhất của Johannes Wier (1515-1588), nhà vật lý, nhà than bí học và nhà nghiên cứu ma quỷ người Hà Lan. Ông là một trong những người đầu tiên viết các tác phẩm lên án việc khủng bố giới phù thuỷ - ND.(80) Lemegeton, tên đầy đủ là Lesser Key of Solomon (Chìa khoá Solomon), là một bộ sách về ma thuật khuyết danh ở thế kỷ XVII và là một trong những bộ sách phổ biến nhất trong lĩnh vực này - ND.(81) Ars Almadel (Nghệ thuật Almadel) là phần thứ tư trong bộLesser Key of Solomon. Phần này nói về cách chế tạo almadel,một thẻ sáp có những biểu tượng bảo vệ vẽ bên trên dùng để đặt bốn cây nến. Ngoài ra còn có những chỉ dẫn liên quan đến màu sắc, chất liệu và nghi thức cần thiết để thiết lập almadel và các cây nến. Ars Almadel cũng nói về các thiên thần sẽ được gọi lên, và giải thích rằng chỉ được gọi đến họ vì những lý do hợp lý và đúng đắn, kèm theo cách khấn - ND.(82) Grimorium Verumb (Ma thuật đích thực hay Ma thuật chân lý), là một cuốn sách về ma thuật, được cho là do “Alibeck Người Ai Cập” sống ở Memphis viết năm 1517. Nhưng giới học giả nhất trí rằng cuốn sách thật sự có từ thế kỷ XVIII và những bản sách đầu tiên xuất hiện bằng tiếng Pháp và Italia - ND.(83) Ars Notoria (Nghệ thuật cao quý) là phần thứ năm và phần cuối cùng trong bộ Lesser Key of Solomon. Đây là cuốn sách ma thuật được biết đến từ thời Trung đại, khẳng định rằng nghệ thuật này do Đấng Sáng tạo truyền cho vua Solomon qua một thiên thần. Sách có hẳn một tập hợp các câu cầu nguyện kèm theo những từ ngữ thần chú bằng vài thứ tiếng (Do Thái, Hy Lạp, v.v…), cách đọc lên, và mối liên hệ giữa những nghi thức này với cách lĩnh hội tất cả các khoa học. Theo cuốn sách, đọc đúng các câu thần chú sẽ giúp đem lại kiến thức về khoa học, trí nhớ sáng suốt, tinh thần vững vàng, và khả năng hùng biện. Sách cũng trình bày những quy tắc phải tuân thủ để bảo đảm đạt kết quả tốt ND.(84) Cuốn sách Thiên đàng - ND.(85) Entropy được định nghĩa như là một đơn vị đo lường năng lượng trong mối tương quan với nhiệt độ tuyệt đối, hay là đơn vị đo sự phân tán đồng thời của năng lượng ở một nhiệt độ nhất định. Thuật ngữ này do nhà vật lý người Đức là Rudolí Clausius nghĩ ra năm 1865. Nguyên gốc, entropy được dùng để mô tả “nhiệt năng tiêu hao” từ các cỗ máy nhiệt hoặc các thiết bị cơ khí không có khả năng vận hành với hiệu suất 100% để chuyển hoá năng lượng. Về sau, thuật ngữ này có thêm nhiều cách giải thích khi con người hiểu thêm về hoạt động của các phân tử - ND.(86) Thiên đường bị mất (Paradise Lost) là một trường ca của nhà thơ người Anh John Milton ở thế kỷ XVII. Nguyên gốc, nó được xuất bản năm 1667, gồm 10 tập. Bản in lần hai năm 1674 chia lại thành 12 lập với đôi chỗ chỉnh lý và phần chú giải về luật thơ. Trường ca là câu chuyện về sự sa ngã của loài người: việc Adam và Eve bị quỷ Satan cám dỗ và bị trục xuất khỏi Vườn Địa đàng. Mục đích của Milton, như nêu trong Tập I, là “lý giải sự đối xử của Chúa với con người” và cuộc xung đột giữa mối lo vĩnh cửu với sự tự nguyện của Chúa - ND.Chương 78Đài tưởng niệm George Washington toạ lạc trên đỉnh đồi Shuter’s ở Alexandria, bang Virginia. Được chia thành ba cấp phân biệt Doric, Ionic và Corinthian với độ phức tạp về mặt kiến trúc tăng dần từ chân lên đến đỉnh, công trình đứng đó như một biểu tượng hữu hình cho con đường vươn tới tri thức của loài người. Lấy cảm hứng từ ngọn hải đăng Pharos ở Alexandria, Ai Cập, toà tháp đồ sộ này có chóp là một kim tự tháp Ai Cập với đỉnh chạm hình ngọn lửa. Bên trong gian phòng cẩm thạch hoa lệ là pho tượng đòng khổng lồ tái hiện George Washington trong bộ lễ phục của Hội Tam điểm cùng với cái bay thật mà ông dùng để xây viên đá đầu tiên cho Điện Capitol. Bên trên gian phòng này là chín tầng khác nhau được đặt những cái tên như Hang động, Phòng Hầm mộ, và Nhà nguyện Hiệp sĩ Thánh chiến. Trong số các báu vật được cất giữ tại đây có hơn hai vạn tập tài liệu của Hội Tam điểm, một bản sao chiếc hòm đựng Pháp điển, và thậm chí cả một mô hình thu nhỏ gian phòng đặt ngai vàng trong đền thờ vua Solomon. Chiếc trực thăng UH-60 bay là là phía trên sông Potomac, đặc vụ CIA Simkins xem đồng hồ. Sáu phút nữa tàu của họ mới đến.Anh ta thở hắt ra và ngó qua cửa sổ về phía Đài tưởng niệm sáng ngời ở phía chân trời. Anh phải thừa nhận rằng toà tháp rực rỡ kia trông ấn tượng chẳng kém bất kỳ công trình nào ở khu vực Công viên Quốc gia. Simkins chưa từng vào trong Đài tưởng niệm, và đêm nay cũng thế thôi. Nếu mọi việc diễn tiến theo đúng kế hoạch thì Robert Langdon và Katherine Solomon sẽ chẳng bao giờ bước ra được khỏi ga tàu điện ngầm.- Đằng kia! - Simkins quát bảo phi công, tay chỉ về ga King Street phía bên kia Đài tưởng niệm. Viên phi công cho trực thăng chao nghiêng và đậu xuống một bãi cỏ dưới chân đồi Shuter’s. Khách bộ hành ngạc nhiên khi thấy nhóm Simkins nhảy ra khỏi máy bay, lao nhanh qua phố xuống ga King Street. Tại khu vực cầu thang, một số hành khách chuẩn bị khởi hành phải nhảy vội ra khỏi lối đi dán mình vào tường khi nhóm đặc vụ mặc đồ đen rầm rập chạy qua họ. Nhà ga King Street lớn hơn Simkins dự đoán, phục vụ cả mấy tuyến khác nhau như tuyến Xanh lam, tuyến Vàng, tuyến Amtrak. Anh ta xem bản đồ hệ thống trên tường, tìm Quảng trường Tự Do và tuyến tàu điện ngầm trực tiếp chạy tới vị trí này.- Tuyến Xanh lam, sân ga phía nam! - Simkins hô lớn - Xuống đó và giải tán hết mọi người!Đồng đội anh ta vọt đi.Simkins chạy tới quầy vé, trình thẻ công vụ và nói như quát với người phụ nữ ngồi trong.- Mấy giờ thì chuyến tàu tiếp từ ga trung tâm mới đến?Người phụ nữ lộ vẻ hoảng sợ.- Tôi không chắc lắm. Cứ mười một phút có một chuyến của tuyến Xanh lam. Không có lịch trình cố định.- Từ chuyến tàu trước đến giờ là bao lâu rồi?- Năm… hoặc sáu phút? Chỉ khoảng thế thôi.Tunner nhẩm tính. Tuyệt. Chuyến tàu tiếp theo sẽ là của Langdon. *** Bên trong một toa tàu điện ngầm đang phóng rất nhanh. Katherine Solomon bồn chồn nhổm dậy trên chiếc ghế nhựa cứng. Mấy bóng đèn huỳnh quang sáng rực trên đầu khiến cô chói mắt, và cô đang phải cố kìm không để hai mí mắt sụp xuống, dù chỉ một giây thôi. Langdon ngồi cạnh cô trong toa xe vắng tanh, đờ đẫn nhìn chiếc túi da dưới chân, mí mắt cũng nặng trĩu, nhịp rung lắc đều đặn của toa xe như ru anh vào trạng thái mơ màng. Katherine hình dung ra những thứ lạ lùng trong túi Langdon. Tại sao CIA lại muốn giành lấy kim tự tháp này. Bellamy nói Sato truy lùng ngọn tháp có thể là do bà ta biết rõ tiềm năng thực sự của nó. Nhưng cho dù kim tự tháp thực sự tiết lộ nơi cất giấu những bí mật cổ xưa thì Katherine thấy cũng thật khó tin là điều đó hấp dẫn được CIA. Nhưng một lần nữa, cô nhắc nhở mình rằng đã nhiều lần người ta phát hiện ra CIA thực hiện những chương trình cận tâm lý học chẳng khác gì chủ nghĩa thần bí và ma thuật cổ xưa. Năm 1995, vụ bê bối “Stargate/scannate”(87) đã tiết lộ một công nghệ mật của CIA gọi là quan sát từ xa - một dạng suy tưởng ngoại cảm giúp người quan sát dõi con mắt tinh thần của mình tới bất kỳ nơi nào trên trái đất và theo dõi nơi đó mà không cần phải có mặt trực tiếp. Dĩ nhiên công nghệ này chẳng có gì mới mẻ. Giới thần bí gọi đó là du hành thiên thể(88) dự đoán… còn các tín đồ Du già thì gọi là trải nghiệm ngoại thân. Tiếc thay, các công dân Mỹ nhút nhát coi công nghệ đó là ngớ ngẩn, và chương trình bị đình chỉ. Ít nhất là về mặt công khai. Nực cười thay, Katherine lại nhận ra mối liên hệ đáng kể giữa những chương trình bất thành của CIA và các đột phá của riêng cô trong ngành Lý trí học. Katherine rất muốn gọi cho cảnh sát để xem họ đã phát hiện được gì ở khu Kalorama Heights, nhưng lúc này cô và Langdon đều không còn điện thoại, và việc liên lạc với giới chức sẽ là một sai lầm, chẳng thể biết Sato có thể vươn tay tới tận đâu. Kiên nhẫn nào, Katherine. Chỉ còn vài phút nữa, họ sẽ tới nơi ẩn náu an toàn, làm khách của một người đàn ông quả quyết rằng mình có câu trả lời ọi chuyện. Katherine hy vọng những câu trả lời của ông ta, cho dù là gì, sẽ giúp cô cứu được anh trai.- Robert? - cô thì thào, ngước nhìn bản đồ tàu điện ngầm - Trạm tiếp theo là của mình đấy.Langdon lờ đờ tỉnh lại.- Phải rồi, cảm ơn chị - Khi đoàn tàu sầm sập lao tới ga, anh gom chiếc túi và nhìn Katherine không mấy chắc chắn - Cứ hy vọng chúng ta đến nơi yên ổn. *** Lúc Tunner Simkins chạy tới nhập vào nhóm của mình, sân ga tàu điện ngầm đã được giải tán xong. Các đồng đội của anh ta toả rộng, trấn giữ vị trí phía sau dãy cột đỡ chạy dọc chiều dài sân ga. Có tiếng ầm ầm vọng tới từ đường hầm ở phía đầu kia của nhà ga. Khi âm thanh ấy to dần, Simkins cảm thấy làn không khí nóng nực cuộn lên xung quanh.Không thoát được đâu ông Langdon ạ.Simkins ngoảnh nhìn hai đặc vụ mà anh ta đã dặn theo sát mình.- Chuẩn bị sẵn thẻ công vụ và vũ khí đi. Loại tàu này là tàu tự động, nhưng vẫn có một trưởng tàu để mở cửa. Tìm anh ta nhé! Bấy giờ, đèn pha của đoàn tàu đã xuất hiện trong đường hầm, tiếng phanh rít lên trong không khí. Khi đoàn tàu ầm ầm lao tới ga và bắt đầu chạy chậm lại, Simkins cùng hai đặc vụ nhô ra, tay vẫy phù hiệu công vụ CIA và căng mắt cố tìm trưởng tàu trước khi anh ta mở tung các cửa. Đoàn tàu tiến lại gần rất nhanh. Trong toa thứ ba, Simkins đã nhìn thấy gương mặt đầy ngạc nhiên của viên trưởng tàu rõ ràng đang cố suy đoán tại sao ba người mặc đồ đen đều vẫy phù hiệu Công vụ với anh ta. Simkins chạy lại phía đoàn tàu lúc này đang sắp dừng hẳn.- CIA! - Simkins thét to, giơ thẻ của mình ra - KHÔNG được mở cửa!Đoàn tàu chầm chậm lướt qua, Simkins bước về phía toa của viên trưởng tàu, quát to.- Không được mở cửa tàu! Anh có hiểu không?! KHÔNG được mở cửa tàu!Đoàn tàu dừng hẳn lại, viên trưởng tàu mở to mắt, gật đầu lia lịa.- Có chuyện gì thế?! - anh ta hỏi qua cửa sổ hông.- Không cho tàu chạy vội, - Simkins nói - Và đừng mở tưng các cửa.- Được rồi.- Cho chúng tôi vào toa thứ nhất được không?Viên trưởng tàu gật đầu. Vẻ sợ hãi, anh ta bước ra khỏi tàu, khoá cửa lại, đoạn cùng Simkins và mấy đặc vụ kia tiến tới toa thứ nhất, rồi giơ tay mở cửa.- Khoá lại nhé. - Simkins nói và rút súng ra.Anh ta cùng hai đồng sự nhanh chóng bước vào toa xe thứ nhất. Viên trưởng tàu khoá cửa lại phía sau họ.Toà thứ nhất chỉ có bốn hành khách, ba cậu choai choai và một bà già, tất cả đều giật mình ngơ ngác khi nhìn thấy ba người đàn ông có vũ trang bước vào. Simkins giơ thẻ công vụ lên.- Không có vấn đề gì hết. Cứ ngồi nguyên tại chỗ.Simkins cùng người của anh ta bắt đầu tìm kiếm, dồn dần về phía cuối toa tàu đã khoá kín - đây là phương pháp “bóp thuốc đánh răng”, như cách gọi thời anh ta còn được đào tạo ở Farm. Tất cả hành khách lúc này đều ở trên tàu. Đi hết nửa toa tàu, nhóm đặc vụ vẫn chưa nhìn thấy ai có chút gì đó giống mô tả về Robert Langdon và Katherine Solomon. Tuy nhiên, Simkins còn rất tự tin. Trên toa không có chỗ nào để núp cả. Không phòng vệ sinh, không buồng kho, và không cả lối thoát thay thế. Cho dù mục tiêu có phát hiện việc họ lên tàu và chạy về phía sau thì cũng chẳng thoát ra nổi. Không thể cạy được cửa, mà Simkins cũng đã bố trí người đứng canh trên sân ga và cả hai đầu của đoàn tàu.Cứ kiên nhẫn.Tuy nhiên, lúc tiến vào toa thứ hai, Simkins bắt đầu bực mình. Ở toa tàu áp chót này chỉ có duy nhất một hành khách, một người Hoa.Simkins và nhóm đặc vụ tiến dần qua toa tàu, tìm kiếm bất kỳ chỗ nào khả dĩ ẩn náu. Không hề có.- Toa cuối, - Simkins nói, tay lăm lăm vũ khí và cùng hai đồng sự tiến về ngưỡng cửa toa cuối cùng của đoàn tàu. Vừa bước tới nơi, cả ba đã đứng sững lại, giương mắt lên trân trối.Quái quỷ…?! Simkins bước nhanh về phía cuối toa tàu trống trơn, tìm kiếm phía sau tất cả ghế ngồi rồi trở lại chỗ người của mình, máu như sôi lên. Bọn chúng biến đi đằng chó nào không biết?! Chú thích:(87) “Dự án Stargate” là mật danh của một trong những nghiên cứu do Chính phủ Hoa Kỳ tiến hành từ năm 1972 đến 1995, nhằm mục đích điều tra khả năng sử dụng các năng lực tâm thần trong các chiến thuật quân sự - ND.(88) Du hành thiên thể là một cách hiểu mang tính bí truyền về bất kỳ dạng trải nghiệm ngoài cơ thể nào thừa nhận sự tồn tại của một “thiên thể” tách biệt với nhục thể và có khả năng thoát ra khỏi nhục thể đó. Du hành thiên thể mô tả việc thiên thể rời khỏi nhục thể để du hành trong thiên hà - ND.
Bạn có thể dùng phím mũi tên
hoặc WASD để
lùi/sang chương