Biểu Tượng Thất Truyền (The Lost Symbol)

Chương 82 - 84



Chương 82

Đại Giáo đường Washington là nhà thờ lớn thứ sáu trên thế giới, cao hơn cả một cao ốc ba mươi tầng và chứa được hơn ba nghìn tín đồ cùng lúc. Kiệt tác theo phong cách Gothic này được tô điểm bằng hơn hai trăm ô cửa sổ lắp kính màu nghệ thuật, một chùm năm mươi ba quả chuông và một bộ đàn gồm 10.647 ống. Tuy nhiên tối nay, Đại Giáo đường hoàn toàn vắng lặng. Đức cha Colin Galloway - chánh xứ nhà thờ - trông như người đã sống tới mấy mươi đời. Còng gập và nhăn nheo trong bộ áo thầy tu màu đen giản dị, ông lầm lũi lê bước đi trước. Langdon và Katherine im lặng theo sau, xuyên qua bóng tối trải khắp 120 mét dọc sảnh chính, trên lối đi giữa hai hàng ghế giáo đường. Lối đi này lượn rất nhẹ sang trái, tạo cảm giác êm ái. Tới Giao lộ chính, cha chánh xứ dẫn họ bước qua vách ngăn toà giảng - vách ngăn tượng trưng giữa khu vực giáo dân với thánh điện bên kia. Thánh đường ngào ngạt mùi hương trầm. Không gian linh thiêng này ngập tràn bóng tối, chỉ tản mát chút ánh sáng phản xạ gián tiếp từ vòm trần trang trí hình lá bên trên. Cờ hiệu năm mươi bang treo cao trên vị trí của ban hợp xướng nhà thờ, xung quanh bày vài tấm bình phong chạm khắc các sự kiện trong kinh thánh. Cha Galloway vẫn đi tiếp, rõ ràng là đã thuộc lòng lộ trình. Có lúc, Langdon những tưởng họ đang tiến thẳng tới chỗ bàn thờ, nơi gắn mười phiến đá lấy từ núi Sinai, nhưng vị chánh xứ già lại rẽ sang trái và dò dẫm qua một cánh cửa ẩn kín dẫn vào gian trái dành cho công việc hành chính. Họ đi dọc một hành lang ngắn tới một văn phòng, ngoài cửa có tấm biển tên bằng đồng: ĐỨC CHA TIẾN SĨ COLLN GALLOWAYCHÁNH XỨ ĐẠI GIÁO ĐƯỜNG Galloway mở cửa và bật đèn, rõ ràng rất quen với việc ghi nhớ nghi thức xã giao dành cho khách khứa. Ông giục họ bước vào và đang cửa lại. Văn phòng chánh xứ nhỏ nhưng trang nhã, có nhiều giá sách cao, một bàn làm việc, một tủ chạm và một buồng tắm riêng. Trên tường treo mấy tấm thảm từ thế kỷ XVI và vài bức tranh tôn giáo. Vị chánh xứ già trỏ hai chiếc ghế da đặt đối diện bàn mình. Langdon ngồi xuống bên Katherine, lòng đầy cảm kích, vì cuối cùng cũng được buông chiếc túi nặng trịch ra. Anh thả nó xuống sàn nhà, ngay dưới chân. Nơi trú ẩn và câu trả lời, Langdon nghĩ thầm, yên vị trên chiếc ghế thoải mái. Ông già dò dẫm vòng ra sau bàn và ngồi xuống chiếc ghế có phần lưng tựa khá cao. Sau đó, thở ra mệt mỏi, ông ngẩng lên, đăm đăm nhìn họ qua đôi mắt mờ đục. Nhưng khi lên tiếng, giọng ông rõ và khỏe đến không ngờ.- Tôi biết là chúng ta chưa hề gặp nhau, - Galloway mở lời - nhưng tôi cảm thấy quen thuộc với cả hai vị.Ông rút khăn tay ra và chấm chấm lên miệng.- Giáo sư Langdon, những tác phẩm của anh không xa lạ gì với tôi, kể cả bài báo rất xuất sắc về những biểu tượng của nhà thờ này. Còn cô Solomon, anh trai Peter của cô và tôi là huynh đệ Tam điểm với nhau đã nhiều năm nay rồi.- Anh Peter đang gặp chuyện không hay, - Katherine bứt rứt báo.- Tôi có nghe nói - ông già thở dài - Và tôi sẽ dốc hết sức để giúp các vị. Langdon nhận thấy cha chánh xứ không đeo nhẫn Tam điểm trên tay, anh biết rằng nhiều hội viên, nhất là những người trong giới tu sĩ, thường chọn cách giấu kín thân phận của mình. Họ bắt đầu trò chuyện. Rõ ràng cha Galloway đã nắm được một vài diễn biến hồi tối nhờ tin nhắn của Warren Bellamy. Nay nghe Langdon và Katherine bổ sung phần còn lại, trông cha càng có vẻ lo lắng.- Tức là - đức cha nói - cái gã đã bắt cóc Peter yêu quý của chúng ta khăng khăng đòi Giáo sư giải mã kim tự tháp để đối lấy mạng sống của anh ấy?- Vâng, - Langdon đáp - Gã nghĩ đó là tấm bản đồ dẫn tới nơi cất giấu những Bí mật cổ xưa.Cha chánh xứ hướng đôi mắt mờ đục kỳ lạ của mình về phía Langdon.- Tai tôi mách cho tôi biết rằng Giáo sư hoài nghi Bí mật cổ xưa, bản đồ và mọi điều tương tự.Langdon không muốn lãng phí thời gian vào chủ đề này.- Con hoài nghi hay tin tưởng đều không quan trọng. Quan trọng là phải giúp Peter. Tiếc rằng khi chúng con giải mã xong kim tự tháp, nó cũng chẳng chỉ tới đâu cả.Ông già ngồi thẳng dậy.- Các vị đã giải mã kim tự tháp?Katherine bèn đỡ lời, nhanh nhẹn giải thích rằng mặc dù Bellamy đã cảnh báo và Peter cũng yêu cầu Langdon không được mở cái gói, nhưng cô vẫn mở ra vì ưu tiên trước nhất là giúp anh trai mình. Cô kể với cha chánh xứ về chóp vàng, về ma trận Albrecht Durer, và về việc ứng dụng nó để giải bức mật mã Tam điểm gồm mười sáu chữ cái thành câu Jeova Sanctus Unus.- Một Đức Chúa đích thực? Nó chỉ nói có vậy thôi à? - Galloway hỏi.- Vâng, thưa cha, - Langdon đáp - Rõ ràng kim tự tháp là một bản đồ ẩn dụ, chứ không phải bản đồ địa lý.Cha chánh xứ chìa tay.- Cho tôi sờ thử xem.Langdon mở khoá túi xách, lôi kim tự tháp ra và cẩn thận đặt nó lên bàn, ngay trước mặt đức cha.Langdon và Katherine lẳng lặng quan sát. Galloway dùng đôi tay gầy yếu kiểm tra từng phân đá, từ bề mặt khắc chữ đến phần đe trơn nhẵn và cuối cùng là chóp cụt. Kiểm tra xong, ông lại chìa tay ra.- Thế còn cái chóp?Langdon nhấc lấy hộp đá nhỏ, bê nó lên bàn và mở nắp, đoạn anh moi cái chóp, đặt nó vào hai tay ông già. Cha chánh xứ lại kiểm tra như lần trước, sờ kỹ từng phân, dừng lại lâu hơn ở mấy chữ chìm trên cái chóp, rõ ràng là hơi khó khăn để nhận biết dòng văn tự nhỏ xíu được khắc rất đẹp này.- Bí mật giấu trong Tổ Chức, - Langdon trợ giúp - Hai chữ Tổ vàChức viết hoa.Galloway đặt cái chóp lên kim tự tháp cụt và sờ soạng để khớp chúng vào nhau, khuôn mặt không biểu lộ điều gì. Ông ngừng lại chốc lát, như thể đang cầu nguyện, rồi kính cẩn đưa hai tay rờ rẫm khắp lượt ngọn tháp hoàn chỉnh vài lần. Sau đó, ông tìm cái hộp hình khối, cầm lên và cũng thám thính rất cẩn thận, các ngón tay dò kỹ cả bên trong và bên ngoài.Xong xuôi, Galloway thả hộp xuống và ngả người ra sau ghế.- Giờ hãy cho tôi biết, - ông lên tiếng, giọng đột nhiên trở nên nghiêm nghị - Tại sao các vị lại đến chỗ tôi?Câu hỏi khiến Langdon ngỡ ngàng.- Thưa cha, chúng con đến bởi vì cha bảo như vậy. Ông Bellamy cũng dặn chúng con hãy tin tưởng cha.- Thế nhưng hai vị không hề tin ông ấy cơ mà?- Con không hiểu?Đôi mắt trắng đục của cha chánh xứ nhìn xuyên qua Langdon.- Hộp đựng chóp có niêm phong. Bellamy dặn không được mở nó ra, nhưng các vị cứ mở. Thêm nữa, chính Peter Solomon cũng yêu cầu anh không được mở nó. Nhưng anh đã mở.- Thưa cha. - Katherine can thiệp - chúng con chỉ cố gắng giúp Peter. Cái tên bắt giữ anh ấy đòi phải giải mã…- Tôi có thể thông cảm, - cha chánh xứ tuyên bố - nhưng các vị thu được gì bằng cách mở gói ra? Chẳng có gì cả. Kẻ bắt giữ Peter đang tìm kiếm một địa điểm, và gã sẽ không thoả mãn với câu trả lời Jeova Sanctus Unus.- Con đồng ý, - Langdon thừa nhận - tiếc rằng kim tự tháp chỉ vỏn vẹn có vậy. Ở trên con đã nói, tấm bản đồ dường như mang tínhẩn dụ hơn là…- Anh lầm rồi, thưa Giáo sư, - cha chánh xứ ngắt lời - Kim tự tháp Tam điểm là một tấm bản đồ thực sự. Nó chỉ tới một địa điểm có thật Anh không hiểu điều đó, bởi vì anh chưa giải mã được đầy đủ kim tự tháp. Thậm chí còn chưa đến gần.Langdon và Katherine nhìn nhau kinh ngạc.Cha chánh xứ đặt hai tay lên ngọn tháp, gần như vuốt ve nó.- Tấm bản đồ này, cũng như bản thân Bí mật cổ xưa, có nhiều tầng ý nghĩa. Các vị vẫn chưa chạm đến bí mật đích thực của nó.- Thưa cha Galloway. - Langdon nói - Chúng con đã dò kỹ từng phân kim tự tháp và cái chóp, chẳng thấy gì khác cả.- Với hiện trạng này của nó thì không có đâu. Nhưng mọi vật thay đổi được mà.- Thưa cha?- Giáo sư, anh biết đấy, kim tự tháp này hứa hẹn một trong những sức mạnh biến cải phi thường. Theo truyền thuyết, nó có thể thay hình đổi dạng… biến đổi diện mạo vật chất của mình để tiết lộ các bí mật.Tương tự trường hợp hòn đá lừng danh đưa thanh kiếm Excalibur(92) vào tay Vua Arthur. Kim tự tháp Tam điểm có thể tự thay đổi theo lựa chọn… và tiết lộ bí mật của nó cho những người xứng đáng.Langdon cảm thấy tuổi tác đã làm ông già lẩn thẩn.- Con xin lỗi, thưa cha. Cha đang nói rằng kim tự tháp này có thể biến đổi về mặt vật lý theo đúng nghĩa đen phải không ạ?- Giáo sư, nếu tôi ra tay biến hoá kim tự tháp ngay tại đây, anh sẽ tin những gì mình chứng kiến chứ?Langdon không biết trả lời sao.- Con cho rằng chẳng còn lựa chọn nào khác.- Tốt lắm. Lát nữa thôi, tôi sẽ làm đúng như thế - ông lại thấm miệng - Cho phép tôi nhắc quý vị rằng đã có thời ngay cả những bộ óc sáng láng nhất cũng tin là trái đất dẹt, vì nếu trái đất tròn thì chắc chắn các đại dương sẽ chảy trôi hết. Thử tưởng tượng xem họ sẽ chỉ trích thế nào nếu các vị tuyên bố “Trái đất không chỉ hình cầu mà còn tồn tại một sức mạnh bí ẩn vô hình giữ mọi thứ lại trên bề mặt của nó”!- Nhưng lực hấp dẫn thì khác xa khả năng biến cải đồ vật bằng cách chạm tay của cha chứ, - Langdon phản đối.- Thế ư? Không lẽ chúng ta vẫn đang sống trong đêm trường Trung cổ, vẫn ham chỉ trích lời gợi ý về các lực lượng “bí ẩn” mà chúng ta không thể nhìn thấy hoặc hiểu được? Lịch sử dạy chúng ta nhiều điều, một trong số đó là đừng cười nhạo những ý tưởng kỳ lạ, vì một ngày kia chúng sẽ trở thành chân lý đáng phụng thờ. Tôi tuyên bố có thể biến đổi kim tự tháp này chỉ với một cái chạm tay, và anh nghi ngờ sự tỉnh táo của tôi. Sẽ khả quan hơn nếu anh là một nhà sử học. Lịch sử đầy rẫy những bộ óc vĩ đại từng công bố bao điều tương tự, họ nhất quyết cho rằng con người sở hữu nhiều khả năng bí ẩn mà tự mình lại không hay biết.Langdon hiểu rằng đức cha nói đúng. Câu cách ngôn nổi tiếng của phái Hermes: “Các ngươi không biết mình là thần thánhư?” là một trong những nền tảng của các Bí mật cổ xưa. Thương hạ tương liên…Con người được tạo ra theo hình ảnh của Chúa… Phong thần. Bức thông điệp về khả năng thần thánh (hoặc tiềm năng ẩn kín) của chính con người là chủ đề được nhắc đi nhắc lại trong văn tự cổ của rất nhiều tín ngưỡng: Thậm chí Kinh thánh cũng nói: Các con là Chúa (Thánh ca 82:6)!- Giáo sư. - Galloway lên tiếng - tôi nhận ra rằng anh, cũng như nhiều người có học thức khác, thường kẹt giữa các thế giới, một chân trong tâm linh, một chân trong vật chất. Lòng anh khát khao muốn tin nhưng tri thức của anh lại từ chối chấp nhận. Là một học giả, anh nên học hỏi những bộ óc vĩ đại của lịch sử - ông ngừng lời và hằng giọng - Nếu tôi nhớ không lầm thì một trong những bộ óc vĩ đại nhất từng phát biểu: “Thực tế vẫn tồn tại nhiều điều chúng ta không lý giải nổi. Đằng sau bí ẩn của tự nhiên còn lắm thứ tinh tế, vô hình và khó diễn tả. Tôn giáo của tôi chính là lòng tôn kính dành cho những sức mạnh nằm ngoài khả năng lĩnh hội của con người”.- Ai nói câu đó nhỉ? - Langdon thắc mắc - Gandhi à?- Không, - Katherine nhắc - Albert Einstein.Katherine Solomon đã đọc toàn bộ trước tác của Einstein và rất ấn tượng trước sự sùng kính sâu sắc ông dành cho những điều bí ẩn. Einstein còn tiên đoán rằng một ngày nào đó công chúng sẽ cảm nhận được như mình. Tôn giáo của tương lai, ông dự báo, là một tôn giáo vũ trụ. Nó sẽ vượt cả Chúa trời, sẽ chẳng có giáo lý hay học thuyết.Dường như Robert Langdon đang phải đánh vật với ý tướng này.Katherine có thể cảm nhận được sự thất vọng ngày càng tăng của anh đối với vị giám mục già, và cô hiểu vì sao. Họ lặn lội đến đây để tìm câu trả lời nhưng chỉ gặp được một ông già mù huyên thiên về việc biến đổi đồ vật bằng một cái chạm tay. Niềm say mê thái quá của Galloway đối với các sức mạnh bí ẩn còn khiến Katherine nhớ tới anh trai cô.- Thưa cha - Katherine nói - anh Peter đang gặp nguy hiểm. Chúng con thì bị CIA truy đuổi. Warren Bellamy đặn chúng con tới đây để nhờ cha giúp đỡ. Con không biết kim tự tháp ngụ ý gì hay chỉ dẫn tới đâu nhưng nếu việc giải mã có thể giúp Peter thì chúng con sẽ làm. Ông Bellamy dặn hãy giấu kín ngọn tháp, dù phải hy sinh mạng sống của Peter, nhưng gia đình con chẳng gặt hái được gì từ nó, trừ đau khổ. Bất kể kim tự tháp đang gìn giữ bí mật nào thì nó cũng sẽ kết thúc tối nay.- Cô nói đúng, - ông già đáp, giọng chua chát - Nó sẽ kết thúc tối nay. Cô đã thu xếp để điều đó chắc chắc xảy ra rồi - ông thở dài - Cô Solomon, gỡ niêm phong cái hộp tức là khởi động một loạt sự kiện vô phương cứu chữa. Có những sức mạnh đã vận hành mà các vị vẫn chưa hay biết. Không thể vãn hồi được nữa đâu.Katherine sửng sốt nhìn đức cha. Có sắc thái tiên tri trong giọng nói của ông già, cứ như thể ông đang đề cập đến bảy niêm ấn ở sách Khải Huyền hoặc cái hộp Pandora(93) vậy.- Thưa cha, - Langdon xen vào - Một kim tự tháp đá mà khởi động được sự kiện gì đó ư? Con không tài nào hiểu nổi.- Dĩ nhiên là anh không hiểu, Giáo sư ạ - ông già trân trân nhìn lại - Mắt anh chưa có khả năng nhận ra điều đó. Chú thích:(92) Excalibur là thanh kiếm huyền thoại của Vua Arthur, có ẩn chứa sức mạnh huyền bí bên trong và tượng trưng cho chủ quyền hợp pháp đối với Vương quốc Anh. Theo Từ điển về Thành ngữ và Truyện ngụ ngôn của tác giả Ebenezer Cobham Brewer,Excalibur được vay mượn từ thành ngữ Latin Ex calce liberatus hay “liberated from the stone” (giải phóng từ phiến đá). TrongCái chết của vua Arthur, Thomas Malory cho rằng Excalibur mang nghĩa “cắt thép”. Theo những tư liệu còn lại về vua Arthur, có hai huyền thoại tách bạch nhau về xuất xứ của thanh kiếm. Đầu tiên là “Thanh kiếm trong đá”, xuất hiện đầu tiên trong bài thơMerlin của Robert de Boron, trong đó Excalibur chỉ có thể được rút ra khỏi đá bởi Arthur, vị vua hợp pháp. Truyền thuyết thứ hai xuất hiện trong sách Post-Vulgate Suite du Merlin (về sau được Thomas Malory sử dụng trong tác phẩm của mình). Ở đây, Arthur nhận được Excalibur từ Tiên nữ của Hồ nước sau khi làm gãy thanh gươm đầu tiên của mình trong một cuộc đánh nhau với vua Pellinore. Vị tiên đã miêu tả thanh kiếm “Excalibur, thanh kiếm cắt thép”, và Arthur nhận nó từ một cánh tay đưa lên khỏi mặt hồ. Khi Arthur sắp chết. Ông bảo Sir Bedivere trả lại thanh kiếm bằng cách ném nó xuống hồ. Trước khi thanh kiếm chạm mặt nước, một cánh tay trồi lên tóm lấy thanh gươm và kéo nó xuống hồ. Cả hai mặt của lưỡi kiếm Excalibur đều có khắc chữ. Một mặt là “take me up” (Vung tôi lên), trên một mặt kia là “cast me away” (Ném tôi đi), tiên đoán trước việc Excalibur sẽ trở về với nước. Thêm vào đó, khi Excalibur được rút ra khỏi vỏ lần đầu tiên, lưỡi kiếm phát ra ánh sáng như của ba mươi ngọn đuốc, làm loá mắt kẻ thù. Ngay cả vỏ của Excalibur cũng có năng lực riêng: người cầm nó sẽ không bị nguy hiểm đến tính mạng vì bị thương hay mất máu. Về sau. Morgan le Fay lấy trộm vỏ kiếm và ném xuống hồ, và vỏ kiếm mất tích từ ấy - ND.(93) Trong thần thoại Hy Lạp, Pandora là người phụ nữ đầu tiên. Thần Zeus ra lệnh cho thần thợ rèn Hephaestus tạo ra nàng từ đất như một hình phạt đối với loài người do việc Prometheus lấy trộm lửa. Mỗi vị thần giúp tạo ra nàng bằng cách tặng cho nàng một tài năng riêng. Theo truyền thuyết, do tính tò mò, Pandora đã mở một cái vò, làm tất cả những thói xấu của loài người thoát ra, chỉ còn xót lại đúng Hy vọng do nàng kịp đóng nắp vò lại - ND.Giữa không khí ẩm ướt của Rừng rậm, Bellamy vẫn cảm nhận được mồ hôi đang lăn dọc lưng mình. Cổ tay bị còng đau nhói, nhưng mọi sự chú ý của ông đều tập trung vào cái cặp titan đáng ngại mà Sato vừa mở ra trên chiếc ghế băng giữa hai người.Những gì trong chiếc cặp này, Sato đã nói, sẽ buộc ông phải nhìn nhận mọi việc theo cách của tôi. Tôi bảo đảm điều đó.Người phụ nữ châu Á nhỏ thó mở chiếc cặp kim loại ngoài tầm mắt của Bellamy nên ông vẫn chưa nhìn được bên trong nó, thay vào đó trí tưởng tượng của ông liền hoạt động rất ghê. Hai tay Sato đang thao tác trong lòng chiếc cặp, và Bellamy đoán rằng bà ta sắp sửa lôi ra một loạt dụng cụ sắc lém, sáng loáng.Đột nhiên một nguồn sáng nhấp nháy bên trong chiếc cặp, càng lúc càng rực rỡ hơn, soi rõ khuôn mặt Sato. Hai tay bà ta vẫn tiếp tục hoạt động, và màu sắc ánh sáng thay đổi. Một lúc sau, Sato nhấc tay ra, nắm lấy toàn bộ chiếc cặp và xoay nó về phía Bellamy để ông nhìn được bên trong.Bellamy phải nheo mắt lại trước ánh sáng của một thứ có lẽ là máy tính xách tay đời mới kèm ống nghe điện thoại, hai chiếc ăng ten và một bàn phím kép. Thoạt tiên Bellamy thấy nhẹ cả người, song cảm giác ấy mau chóng chuyển thành tâm trạng bối rối khó hiểu.Màn hình mang biểu tượng của CIA và dòng chữ:BẢO MẬT TRUY CẬPNGƯỜI SỬ DỤNG: INOUE SATOCẤP PHÉP BẢO MẬT: CẤP ĐỘ 5Bên dưới cửa sổ truy cập của máy tính, một biểu tượng đang nhấp nháy:“Xin đợi một lát…”ĐANG GIẢI Mà TỆP TIN…Bellamy đưa mắt nhìn Sato, bà ta cũng đang ngó ông đăm đăm.- Tôi không muốn để ông trông thấy thứ này. - bà ta nói - Nhưng ông khiến tôi không còn lựa chọn nào khác.Màn hình lại nhấp nháy, Bellamy liếc xuống khi file dữ liệu mở ra, nội dung của nó tràn kín toàn bộ màn hình LCD.Bellamy nhìn sững màn hình, cố gắng ghi nhận những thông tin xuất hiện. Dần dần hiểu ra, ông cảm thấy máu rút hết khỏi mặt mình.Ông trợn mắt kinh hãi, không tài nào ngoảnh đi nổi.- Nhưng… không thể nào! - viên Kiến trúc sư kêu lên - Tại sao… lại như thế được?Mặt Sato đằng đằng sát khí.- Nói đi, ông Bellamy. Ông phải nói cho tôi biết.Khi đã thực sự thấu hiểu ý nghĩa của những điều phơi bày trên màn hình, Warren Bellamy cảm thấy toàn bộ thế giới đang chao đảo quay cuồng bên bờ thảm hoạ.Lạy Chúa… mình đã phạm một sai lầm khủng khiếp!Chương 84Đức cha Galloway cảm thấy tràn đầy sức sống.Cũng như tất cả mọi người, ông biết rằng rồi có lúc mình sẽ phải trút bỏ xác phàm, nhưng tối nay chưa phải là thời khắc đó. Quả tim của ông đang đập nhanh, mạnh… tâm trí thì hoàn toàn sáng suốt.Còn có việc phải làm.Khi lướt đôi tay viêm khớp qua các bề mặt nhẵn nhụi của kim tự tháp, Galloway không dám tin vào cảm nhận của mình. Chưa bao giờ ta ngò rằng đời ta sẽ được chứng kiến khoảnh khắc này. Bao nhiêu thế hệ qua, các mảnh của tấm bản đồ biểu hình bị tách rời và luôn được giữ gìn sao cho cách xa nhau. Giờ thì Châu về Hợp Phố.Galloway tự hỏi phải chăng đây là thời khắc đã được dự báo trước.Thật lạ là số phận chỉ định hai người không phải hội viên Tam điểm để ráp cái kim tự tháp. Dù sao thì điều đó cũng có vẻ phù hợp.Những bí mật đang di chuyển ra khỏi nội bộ… ra khỏi bóng tối…tiến vào ánh sáng.- Giáo sư, - cha chánh xứ lên tiếng, xoay đầu về hướng có tiếng thở của Langdon - Peter đã nói tại sao ông ấy muốn anh trông giữ cái gói nhỏ chưa?- Ông ấy kể rằng có những nhân vật quyền thế muốn đánh cắp nó - Langdon đáp.Cha chánh xứ gật đầu.- Phải. Peter cũng nói với tôi như vậy.- Thế ạ? - Bên trái Galloway, tiếng Katherine đột ngột vang lên - Anh con đã trao đổi với cha về kim tự tháp này?- Dĩ nhiên. - Galloway đáp - Anh cô và tôi từng thảo luận rất nhiều chuyện. Tôi nguyên là Đại Huynh trưởng tại Thánh điện, và thỉnh thoảng anh cô vẫn đến gặp tôi hỏi ý kiến. Chừng một năm trước, anh ta có tới đây, tâm trạng vô cùng bối rối. Anh ấy ngồi đúng chỗ cô đang ngồi bây giờ, và hỏi tôi có tin vào những điềm báo siêu nhiên không.- Điềm báo ư? - Katherine kêu lên đầy lo lắng - Ý cha là… những ảo mộng?- Không hẳn. Bản năng hơn cơ. Peter kể rằng anh ta cảm thấy một thế lực hắc ám hiện diện ngày càng rõ trong cuộc sống của mình. Có gì đó đang theo dõi… rình rập… tìm cách hãm hại anh ấy.- Rõ ràng Peter đã đúng. - Katherine đồng tình - vì chính cái gã giết mẹ chúng tôi và Zachary lại mò tới Washington, rồi trở thành một trong những huynh đệ Tam điểm của Peter.- Phải - Langdon tham gia câu chuyện - nhưng điều đó không giải thích được sự can thiệp của CIA.Galloway lưỡng lự.- Những kẻ có quyền luôn tìm cách có nhiều quyền lực hơn nữa.- Nhưng… còn CIA? - Langdon hỏi xoáy thêm - Và các bí mật khó hiểu? Vẫn còn thiếu dữ kiện nào đó.- Đúng như vậy, - Katherine tán thành - CIA phát triển nhờ các tiến bộ công nghệ và luôn thử nghiệm các môn khoa học bí ẩn như ESP, theo dõi từ xa, tước đoạt giác quan và các trạng thái tâm thần kích thích mạnh bằng dược lý. Tất cả đều chỉ là một, đó là khai thác tiềm năng trong trí não con người. Một trong những điều tôi học được từ anh Peter là: Khoa học và chủ nghĩa thần bí có liên hệ rất mật thiết chỉ phân biệt với nhau qua cách tiếp cận. Mục tiêu của chúng giống nhau… nhưng phương pháp thì khác hẳn.- Nghe Peter nói, lĩnh vực nghiên cứu của cô là một dạng khoa học thần bí hiện đại, đúng không? - Galloway hỏi.Lý trí học. - Katherine gật đầu đáp - Và nó đang chứng minh rằng con người có những sức mạnh mà chính bản thân họ không thể hình dung nổi - Cô ra dấu về phía một ô cửa sổ lắp kính màu mô tả hình ảnh “Jesus toả sáng, quen thuộc, tức là hình Đức Chúa với hào quang toả ra từ đầu và tay - Trên thực tế, con chỉ dùng thiết bị tích điện kép (CDD) hạ nhiệt để chụp bàn tay một thầy lang chữa bệnh bằng đức tin. Kết quả thu được là những dòng năng lượng tuôn trào qua các đầu ngón tay trong khi ông ta làm việc… y như hình ảnh Jesus trong ô cửa sổ lắp kính màu của cha kia.Một trí óc được đào tạo rất bài bản, Galloway nghĩ thầm, cố giấu một nụ cười. Cô có biết Jesus chữa bệnh như thế nào không?- Con nhận ra rằng, - Katherine tiếp - y học hiện đại cười nhạo các thầy lang và thầy pháp, nhưng con đã tận mắt chứng kiến công việc của họ. Các máy ảnh CCD ghi lại rất rõ cảnh thầy lang truyền một trường năng lượng lớn từ các đầu ngón tay sang bệnh nhân và làm thay đổi cấu trúc tế bào của họ, đúng như thế. Nếu đó không phải là sức mạnh thần thánh thì thật không biết gọi là gì.Đức cha Galloway phì cười. Katherine có niềm đam mê nhiệt thành y hệt anh trai cô.- Peter từng so sánh Lý trí học với những người tiên phong bị chế giễu vì kiên trì với ý tưởng dị giáo về một trái đất hình cầu xưa kia.Chỉ qua một đêm, những người mở đường ấy từ hạng ngu ngốc trở thành các anh hùng, khám phá ra nhiều thế giới mới mẻ và nới rộng đường chân trời cho cả nhân loại trên hành tinh. Peter nghĩ rằng cô cũng sẽ làm được như thế. Anh ấy rất kỳ vọng vào công việc của cô. Suy cho cùng, mọi thay đổi triết học lớn trong lịch sử đều bắt đầu từ một ý tưởng mạnh dạn.Dĩ nhiên, Galloway biết rằng người ta không nhất thiết phải vào phòng thí nghiệm để tận mắt trông thấy bằng chứng về ý tưởng mới mẻ táo bạo hay nghe lời đề xuất về tiềm năng chưa khai phá của con người. Chính Đại Giáo đường này đã từng tổ chức nhiều buổi cầu nguyện chữa bệnh cho người ốm và liên tục chứng kiến những kết quả thực sự kỳ diệu, những biến đổi vật lý đáng được ghi chép về mặt y học. Vấn đề không nằm ở chỗ liệu có phải Chúa đã ban cho con người sức mạnh to lớn hay không… mà ở chỗ chúng ta làm cách nào giải phóng được sức mạnh ấy.Đức Cha kính cẩn vòng hai bàn tay quanh Kim tự tháp Tam điểm và nói khẽ.- Các bạn, tôi không biết chính xác ngọn tháp chỉ tới đâu… nhưng tôi biết rõ điều này. Có một kho báu tinh thần rất lớn được cất giấu đâu đó ngoài kia… một kho báu đã kiên nhẫn chờ đợi trong bóng tối hàng bao thế hệ. Tôi tin rằng nó là tác nhân có sức mạnh biến đổi cả thế giới - ông chạm tay vào phần đỉnh chóp vàng - Kim tự tháp hoàn chỉnh đã được ráp lại… thời khắc lịch sử sắp đến. Cổ nhân đã tiên đoán về khả năng của một giai đoạn khai sáng có tính bước ngoặt… Tại sao lại không nhỉ?- Thưa cha, - Langdon lên tiếng, giọng khiêu khích - tất cả chúng ta đều đã quá quen với sự mặc khải của Thánh John và ý nghĩa thật sự của sách Khải huyền, nhưng lời tiên tri trong Kinh thánh thì hầu như không…- Ôi lạy Chúa, sách Khải huyền là một mớ rác rưởi - đức cha đáp - Chịu chẳng biết đọc nó thế nào. Tôi đang đề cập đến những trí tuệ sáng láng diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ minh bạch, chẳng hạn các dự đoán của Thánh Augustine, Tử tước Francis Bacon, Newton, Einstein, và còn nhiều nhiều nữa, tất cả đều tiên đoán về một thời điểm khai sáng mang tính biến đổi. Ngay cả Jesus cũng nói “Chẳng có gì giấu giếm được mãi, và cũng chẳng có bí mật nào lại không lộ ra ánh sáng”.- Đó là lời tiên đoán rất an toàn, - Langdon nói - Kiến thức phát triển theo cấp số nhân. Chúng ta càng biết nhiều thì khả năng học hỏi càng lớn, và tốc độ mở mang cơ sở tri thức càng cao hơn.- Đúng vậy, - Katherine thêm vào - Có thể thấy rõ điều đó trong khoa học. Mỗi công nghệ mới sáng chế đều trở thành phương tiện để phát minh ra những công nghệ mới khác… và nó cứ thế mà phát triển. Đó là lý do tại sao năm năm qua khoa học lại tiến nhanh hơn so với cả năm ngàn năm trước đó. Một sự phát triển ghê gớm. Ví von theo kiểu toán học là cùng với thời gian, đường cong hàm mũ mô tả quá trình gần như trở thành đường thẳng đứng, và sự phát triển diễn ra nhanh kinh khủng.Căn phòng chìm vào im lặng. Cha Galloway cảm thấy hai vị khách của mình vẫn chưa suy luận được bằng cách nào kim tự tháp sẽ dẫn họ tới những phát hiện mới. Đó là lý do vì sao số phận đưa các vi đến với tôi, ông nghĩ thầm. Tôi phải đảm nhân vai trò này.Đã nhiều năm, Đức cha Colin Galloway, cùng với các huynh đệ Tam điểm của mình, giữ vai trò người gác cổng. Còn giờ đây mọi thứ đang thay đổi.Ta không còn là người gác cổng nữa… Ta là người chỉ đường.- Giáo sư Langdon? - Galloway lên tiếng, vươn tay qua bàn - Hãy cầm lấy tay tôi.Robert Langdon do dự ngó bàn tay Galloway chìa ra trước mặt mình.- Chúng ta sắp cầu nguyện ư?Rất nhã nhặn, anh đặt bàn tay phải của mình vào bàn tay nhăn nhúm của cha chánh xứ. Ông già nắm lấy nhưng không cầu nguyện. Thay vào đó, ông lần tìm ngón trỏ của Langdon và đưa nó vào lòng hộp đá từng cất giữ chóp vàng.- Mắt anh đã đánh lừa anh. - cha chánh xứ nói - Phải chi nhìn bằng đầu ngón tay như tôi thì anh sẽ nhận ra rằng cái hộp này còn điều đáng lưu tâm.Langdon nghiêm túc đưa đầu ngón tay miết xung quanh lòng hộp, nhưng anh chẳng cảm thấy gì. Bên trong hoàn toàn nhẵn nhụi.- Cứ tìm kỹ đi. - Galloway nhắc.Cuối cùng, đầu ngón tay của Langdon cũng nhận ra một vòng tròn nhỏ xíu nhô lên, một chấm cực nhỏ ở chính giữa đáy hộp. Anh bỏ tay ra và săm soi kỹ càng bên trong. Anh không thể nhìn thấy chấm tròn nọ bằng mắt thường. Nó là gì nhỉ?- Anh có nhận ra biểu tượng đó không? - Galloway hỏi.- Biểu tượng ư? - Langdon nói - Con chẳng nhìn thấy gì cả.- Ấn mạnh nó xem nào.Langdon làm đúng như yêu cầu, ấn đầu ngón tay xuống cái chấm.Ông ấy mong đợi chuyện gì xảy ra đây.- Nhấn ngón tay của anh xuống - cha chánh xứ nhắc - ấn mạnh.Langdon liếc nhìn Katherine, cô bối rối đưa tay vén một lọn tóc ra sau tai.Vài giây trôi qua, cha chánh xứ gật đầu.- Được rồi, bỏ tay ra đi. Quá trình giả kim đã hoàn tất.Giả kim ư? Robert Langdon buông tay khỏi cái hộp đá và ngơ ngác ngồi im. Chẳng có gì thay đổi. Cái hộp vẫn nằm nguyên trên bàn.- Có gì đâu, - Langdon nói.- Hãy kiểm tra đầu ngón tay anh xem, - cha chánh xứ bảo - Anh sẽ thấy một sự biến đổi.Langdon nhìn ngón tay mình, sự biến đổi duy nhất là trên da anh xuất hiện vết lõm do một cục bướu tròn tạo ra: một vòng tròn nhỏ xíu với một chấm ở chính giữa.ẢNH- Bây giờ anh đã nhận ra biểu tượng chưa? - Galloway hỏi.Langdon đã nhận ra, nhưng việc ông già cảm nhận rõ đến từng chi tiết mới thực sự khiến anh ấn tượng. Nhìn bằng đầu ngón tay quả là một kỹ năng cao siêu.- Đó là thuật giả kim, - Katherine nói, xích ghế của mình vào gần hơn và nhìn kỹ ngón tay Langdon - Đây là biểu tượng cổ của vàng.- Đúng vậy - Galloway mỉm cười và vỗ lên cái hộp - Chúc mừng Giáo sư. Anh đã giành được thứ mà mọi nhà giả kim trong lịch sử đều mong ước. Từ một chất liệu vô giá trị, anh đã tạo ra vàng.Langdon cau mày thờ ơ. Mẹo vặt của Galloway xem ra chẳng mấy hữu ích.- Một ý tưởng rất thú vị, thưa cha, nhưng con e rằng biểu tượng vòng tròn với một chấm chính giữa này có tới hàng chục ý nghĩa. Nó được gọi là bàn huyền điểm, và là một trong những biểu tượng được sử dụng rộng rãi nhất trong lịch sử.- Anh đang nói gì thế? - cha chánh xứ hỏi, giọng đầy vẻ hoài nghi.Langdon sửng sốt vì một hội viên Tam điểm lại không thông thuộc ý nghĩa tinh thần của biểu tượng này.- Thưa cha, bàn huyền điểm có vô số nghĩa. Ở Ai Cập cổ đại, nó đại diện cho thần mặt trời Ra, thiên văn học hiện đại vẫn sử dụng nó như biểu tượng của vầng thái dương. Trong triết học phương Đông, bàn huyền điểm thể hiện sự thấu suốt về mặt tinh thần của Huệ nhãn, của hoa hồng thiêng liêng, và là biểu tượng của sự khai trí. Các tín đồ Kabbalah dùng nó để chỉ Kether (Sephiroth(94) tối cao và “điều sâu kín nhất trong tất cả những điều sâu kín”). Chủ nghĩa thần bí sơ khai gọi bàn huyền điểm là Thần nhãn, nó cũng là nguồn gốc của Thấu nhãn trên dấu Quốc ấn. Những người theo trường phái Pythagoras sử dụng bàn huyền điểm làm hình ảnh đại diện cho Monad - Chân lý Thần thánh, Kiến thức Nguyên thuỷ, sự tương thông giữa trí tuệ và tâm hồn, và…- Thôi đủ rồi! - Galloway bật cười - Cảm ơn Giáo sư. Anh nói rất đúng.Langdon nhận ra đức cha vừa đùa cợt mình. Ông ấy biết rõ tất cả.- Bàn huyền điểm, - Galloway nói, vẫn tủm tỉm cười - là biểu tượng của Bí ẩn cổ xưa. Vì lý do đó, tôi cho rằng không phải ngẫu nhiên mà nó hiện diện trong hộp. Theo truyền thuyết, bí mật của tấm bản đồ này được cất giấu ở những chi tiết nhỏ nhất.- Hay lắm, - Katherine lên tiếng - nhưng ngay cả khi người ta cố ý bố trí biểu tượng này ở đây thì nó cũng chẳng đưa chúng ta đến gần việc giải mã hơn chút nào, phải không ạ?- Lúc nãy cô nói dấu sáp niêm phong mà cô bóc có in hình chiếc nhẫn của Peter?- Vâng.- Và anh thì mang theo chiếc nhẫn đó?- Vâng - Langdon thọc tay vào túi, anh móc chiếc nhẫn ra khỏi túi nhựa rồi đặt lên bàn trước mặt cha chánh xứ.Galloway nhặt chiếc nhẫn và bắt đầu sờ các bề mặt của nó.- Chiếc nhẫn độc đáo này được tạo ra cùng thời Kim tự tháp Tam điểm. Theo truyền thống thì hội viên nào chịu trách nhiệm bảo vệ kim tự tháp sẽ đeo nhẫn. Tối nay, khi phát hiện bàn huyền điểm nhỏ xíu ở đáy hộp đá, tôi đã nhận ra rằng chiếc nhẫn là một phần của biểu hình.- Thật thế ư?- Tôi đoán chắc như vậy. Peter là người bạn thân nhất của tôi, anh ấy đã đeo chiếc nhẫn này nhiều năm rồi. Tôi rất quen thuộc với nó - ông già trả chiếc nhẫn lại cho Langdon - Anh tự xem đi.Langdon nhận lấy chiếc nhẫn và cẩn thận kiểm tra. Anh rà các ngón tay lên con phượng hoàng hai đầu, con số 33, dòng chữ ORDO AB CHAO, và cả dòng chữ Tất cả được tiết lộ ở cấp 33… vẫn không nhận thấy chi tiết nào hữu dụng. Sau đó, khi lần xuống xung quanh vành ngoài đai nhẫn, Langdon đột ngột dừng lại. Anh giật mình lật chiếc nhẫn lên và chăm chú quan sát đáy đai nhẫn.Galloway hỏi:- Anh tìm thấy rồi phải không?- Con nghĩ là như vậy! - Langdon đáp.Katherine xích ghế lại gần hơn.- Gì vậy?- Dấu hiệu cấp độ trên đai nhẫn, - Langdon đáp, chìa cho cô xem - Nó nhỏ đến mức ta không phát hiện nổi bằng mắt thường, nhưng khi sờ bằng tay, ta có thể khẳng định là nó ăn lõm xuống, giống một dấu khắc tròn nhỏ xíu.Dấu hiệu cấp độ bố trí ở chính giữa phần đáy đai nhẫn… và phải thừa nhận rằng trông đúng bằng kích cỡ của cái chấm nổi ở đáy hộp.- Cùng cỡ thì phải? - Katherine nhích lại gần hơn nữa, miệng kêu lên đầy phấn khích.- Có một cách kiểm chứng - Langdon cầm chiếc nhẫn và đưa vào trong hộp, lựa cho hai hình tròn trùng khít nhau. Khi anh ấn xuống, vòng tròn nổi trong hộp khớp đúng vào phần lõm của chiếc nhẫn. Có một tiếng tách mơ hồ nhưng đanh gọn.Tất cả cùng nhổm dậy.Langdon chờ đợi, nhưng không có gì khác lạ.- Sao thế?! - cha chánh xứ hỏi.- Chẳng có gì cả, - Katherine đáp - Cái nhẫn khớp đúng chỗ… nhưng không có gì xảy ra hết.- Không có sự biến đổi lớn lao nào ư? - Galloway lộ vẻ bối rối.Chưa xong, Langdon ngẫm nghĩ, đăm đăm nhìn xuống phù hiệu phượng hoàng hai đầu và con số 33 đúc nổi của chiếc nhẫn. Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33. Anh suy nghĩ rất lung, về Pythagoras, về hình học thiêng liêng, về các góc, rồi băn khoăn tự hỏi liệu cấp độ có mang ý nghĩa toán học nào không.Nhịp tim dần đập rộn lên, Langdon đưa tay cầm chiếc nhẫn đang dính chặt lấy đáy hộp. Sau đó anh chậm rãi xoay nó sang phải. Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33.Anh xoay chiếc nhẫn 10 độ… 20 độ… 30 độ…Những gì xảy đến tiếp theo, Langdon chưa bao giờ chứng kiến cả.Chú thích:(94) Cây Sephiroth bao gồm 10 vòng tròn, đại diện cho các con số từ 1 đến 10 và được liên kết với nhau bằng 22 kênh - 22 chữ cái Do Thái. Mười số và 22 chữ cái tạo ra con số huyền bí 32, biểu hiện cho 32 con đường đi tới Trí tuệ. Số và chữ được xem là chìa khoá mở kho tàng tri thức, vì bằng cách sắp xếp chúng theo một hệ thống bỉ mật, những điều bí ẩn của tạo hoá sẽ được hé lộ - ND

Đại Giáo đường Washington là nhà thờ lớn thứ sáu trên thế giới, cao hơn cả một cao ốc ba mươi tầng và chứa được hơn ba nghìn tín đồ cùng lúc. Kiệt tác theo phong cách Gothic này được tô điểm bằng hơn hai trăm ô cửa sổ lắp kính màu nghệ thuật, một chùm năm mươi ba quả chuông và một bộ đàn gồm 10.647 ống. Tuy nhiên tối nay, Đại Giáo đường hoàn toàn vắng lặng. Đức cha Colin Galloway - chánh xứ nhà thờ - trông như người đã sống tới mấy mươi đời. Còng gập và nhăn nheo trong bộ áo thầy tu màu đen giản dị, ông lầm lũi lê bước đi trước. Langdon và Katherine im lặng theo sau, xuyên qua bóng tối trải khắp 120 mét dọc sảnh chính, trên lối đi giữa hai hàng ghế giáo đường. Lối đi này lượn rất nhẹ sang trái, tạo cảm giác êm ái. Tới Giao lộ chính, cha chánh xứ dẫn họ bước qua vách ngăn toà giảng - vách ngăn tượng trưng giữa khu vực giáo dân với thánh điện bên kia. Thánh đường ngào ngạt mùi hương trầm. Không gian linh thiêng này ngập tràn bóng tối, chỉ tản mát chút ánh sáng phản xạ gián tiếp từ vòm trần trang trí hình lá bên trên. Cờ hiệu năm mươi bang treo cao trên vị trí của ban hợp xướng nhà thờ, xung quanh bày vài tấm bình phong chạm khắc các sự kiện trong kinh thánh. Cha Galloway vẫn đi tiếp, rõ ràng là đã thuộc lòng lộ trình. Có lúc, Langdon những tưởng họ đang tiến thẳng tới chỗ bàn thờ, nơi gắn mười phiến đá lấy từ núi Sinai, nhưng vị chánh xứ già lại rẽ sang trái và dò dẫm qua một cánh cửa ẩn kín dẫn vào gian trái dành cho công việc hành chính. Họ đi dọc một hành lang ngắn tới một văn phòng, ngoài cửa có tấm biển tên bằng đồng: ĐỨC CHA TIẾN SĨ COLLN GALLOWAYCHÁNH XỨ ĐẠI GIÁO ĐƯỜNG Galloway mở cửa và bật đèn, rõ ràng rất quen với việc ghi nhớ nghi thức xã giao dành cho khách khứa. Ông giục họ bước vào và đang cửa lại. Văn phòng chánh xứ nhỏ nhưng trang nhã, có nhiều giá sách cao, một bàn làm việc, một tủ chạm và một buồng tắm riêng. Trên tường treo mấy tấm thảm từ thế kỷ XVI và vài bức tranh tôn giáo. Vị chánh xứ già trỏ hai chiếc ghế da đặt đối diện bàn mình. Langdon ngồi xuống bên Katherine, lòng đầy cảm kích, vì cuối cùng cũng được buông chiếc túi nặng trịch ra. Anh thả nó xuống sàn nhà, ngay dưới chân. Nơi trú ẩn và câu trả lời, Langdon nghĩ thầm, yên vị trên chiếc ghế thoải mái. Ông già dò dẫm vòng ra sau bàn và ngồi xuống chiếc ghế có phần lưng tựa khá cao. Sau đó, thở ra mệt mỏi, ông ngẩng lên, đăm đăm nhìn họ qua đôi mắt mờ đục. Nhưng khi lên tiếng, giọng ông rõ và khỏe đến không ngờ.- Tôi biết là chúng ta chưa hề gặp nhau, - Galloway mở lời - nhưng tôi cảm thấy quen thuộc với cả hai vị.Ông rút khăn tay ra và chấm chấm lên miệng.- Giáo sư Langdon, những tác phẩm của anh không xa lạ gì với tôi, kể cả bài báo rất xuất sắc về những biểu tượng của nhà thờ này. Còn cô Solomon, anh trai Peter của cô và tôi là huynh đệ Tam điểm với nhau đã nhiều năm nay rồi.- Anh Peter đang gặp chuyện không hay, - Katherine bứt rứt báo.- Tôi có nghe nói - ông già thở dài - Và tôi sẽ dốc hết sức để giúp các vị. Langdon nhận thấy cha chánh xứ không đeo nhẫn Tam điểm trên tay, anh biết rằng nhiều hội viên, nhất là những người trong giới tu sĩ, thường chọn cách giấu kín thân phận của mình. Họ bắt đầu trò chuyện. Rõ ràng cha Galloway đã nắm được một vài diễn biến hồi tối nhờ tin nhắn của Warren Bellamy. Nay nghe Langdon và Katherine bổ sung phần còn lại, trông cha càng có vẻ lo lắng.- Tức là - đức cha nói - cái gã đã bắt cóc Peter yêu quý của chúng ta khăng khăng đòi Giáo sư giải mã kim tự tháp để đối lấy mạng sống của anh ấy?- Vâng, - Langdon đáp - Gã nghĩ đó là tấm bản đồ dẫn tới nơi cất giấu những Bí mật cổ xưa.Cha chánh xứ hướng đôi mắt mờ đục kỳ lạ của mình về phía Langdon.- Tai tôi mách cho tôi biết rằng Giáo sư hoài nghi Bí mật cổ xưa, bản đồ và mọi điều tương tự.Langdon không muốn lãng phí thời gian vào chủ đề này.- Con hoài nghi hay tin tưởng đều không quan trọng. Quan trọng là phải giúp Peter. Tiếc rằng khi chúng con giải mã xong kim tự tháp, nó cũng chẳng chỉ tới đâu cả.Ông già ngồi thẳng dậy.- Các vị đã giải mã kim tự tháp?Katherine bèn đỡ lời, nhanh nhẹn giải thích rằng mặc dù Bellamy đã cảnh báo và Peter cũng yêu cầu Langdon không được mở cái gói, nhưng cô vẫn mở ra vì ưu tiên trước nhất là giúp anh trai mình. Cô kể với cha chánh xứ về chóp vàng, về ma trận Albrecht Durer, và về việc ứng dụng nó để giải bức mật mã Tam điểm gồm mười sáu chữ cái thành câu Jeova Sanctus Unus.- Một Đức Chúa đích thực? Nó chỉ nói có vậy thôi à? - Galloway hỏi.- Vâng, thưa cha, - Langdon đáp - Rõ ràng kim tự tháp là một bản đồ ẩn dụ, chứ không phải bản đồ địa lý.Cha chánh xứ chìa tay.- Cho tôi sờ thử xem.Langdon mở khoá túi xách, lôi kim tự tháp ra và cẩn thận đặt nó lên bàn, ngay trước mặt đức cha.Langdon và Katherine lẳng lặng quan sát. Galloway dùng đôi tay gầy yếu kiểm tra từng phân đá, từ bề mặt khắc chữ đến phần đe trơn nhẵn và cuối cùng là chóp cụt. Kiểm tra xong, ông lại chìa tay ra.- Thế còn cái chóp?Langdon nhấc lấy hộp đá nhỏ, bê nó lên bàn và mở nắp, đoạn anh moi cái chóp, đặt nó vào hai tay ông già. Cha chánh xứ lại kiểm tra như lần trước, sờ kỹ từng phân, dừng lại lâu hơn ở mấy chữ chìm trên cái chóp, rõ ràng là hơi khó khăn để nhận biết dòng văn tự nhỏ xíu được khắc rất đẹp này.- Bí mật giấu trong Tổ Chức, - Langdon trợ giúp - Hai chữ Tổ vàChức viết hoa.Galloway đặt cái chóp lên kim tự tháp cụt và sờ soạng để khớp chúng vào nhau, khuôn mặt không biểu lộ điều gì. Ông ngừng lại chốc lát, như thể đang cầu nguyện, rồi kính cẩn đưa hai tay rờ rẫm khắp lượt ngọn tháp hoàn chỉnh vài lần. Sau đó, ông tìm cái hộp hình khối, cầm lên và cũng thám thính rất cẩn thận, các ngón tay dò kỹ cả bên trong và bên ngoài.Xong xuôi, Galloway thả hộp xuống và ngả người ra sau ghế.- Giờ hãy cho tôi biết, - ông lên tiếng, giọng đột nhiên trở nên nghiêm nghị - Tại sao các vị lại đến chỗ tôi?Câu hỏi khiến Langdon ngỡ ngàng.- Thưa cha, chúng con đến bởi vì cha bảo như vậy. Ông Bellamy cũng dặn chúng con hãy tin tưởng cha.- Thế nhưng hai vị không hề tin ông ấy cơ mà?- Con không hiểu?Đôi mắt trắng đục của cha chánh xứ nhìn xuyên qua Langdon.- Hộp đựng chóp có niêm phong. Bellamy dặn không được mở nó ra, nhưng các vị cứ mở. Thêm nữa, chính Peter Solomon cũng yêu cầu anh không được mở nó. Nhưng anh đã mở.- Thưa cha. - Katherine can thiệp - chúng con chỉ cố gắng giúp Peter. Cái tên bắt giữ anh ấy đòi phải giải mã…- Tôi có thể thông cảm, - cha chánh xứ tuyên bố - nhưng các vị thu được gì bằng cách mở gói ra? Chẳng có gì cả. Kẻ bắt giữ Peter đang tìm kiếm một địa điểm, và gã sẽ không thoả mãn với câu trả lời Jeova Sanctus Unus.- Con đồng ý, - Langdon thừa nhận - tiếc rằng kim tự tháp chỉ vỏn vẹn có vậy. Ở trên con đã nói, tấm bản đồ dường như mang tínhẩn dụ hơn là…- Anh lầm rồi, thưa Giáo sư, - cha chánh xứ ngắt lời - Kim tự tháp Tam điểm là một tấm bản đồ thực sự. Nó chỉ tới một địa điểm có thật Anh không hiểu điều đó, bởi vì anh chưa giải mã được đầy đủ kim tự tháp. Thậm chí còn chưa đến gần.Langdon và Katherine nhìn nhau kinh ngạc.Cha chánh xứ đặt hai tay lên ngọn tháp, gần như vuốt ve nó.- Tấm bản đồ này, cũng như bản thân Bí mật cổ xưa, có nhiều tầng ý nghĩa. Các vị vẫn chưa chạm đến bí mật đích thực của nó.- Thưa cha Galloway. - Langdon nói - Chúng con đã dò kỹ từng phân kim tự tháp và cái chóp, chẳng thấy gì khác cả.- Với hiện trạng này của nó thì không có đâu. Nhưng mọi vật thay đổi được mà.- Thưa cha?- Giáo sư, anh biết đấy, kim tự tháp này hứa hẹn một trong những sức mạnh biến cải phi thường. Theo truyền thuyết, nó có thể thay hình đổi dạng… biến đổi diện mạo vật chất của mình để tiết lộ các bí mật.Tương tự trường hợp hòn đá lừng danh đưa thanh kiếm Excalibur(92) vào tay Vua Arthur. Kim tự tháp Tam điểm có thể tự thay đổi theo lựa chọn… và tiết lộ bí mật của nó cho những người xứng đáng.Langdon cảm thấy tuổi tác đã làm ông già lẩn thẩn.- Con xin lỗi, thưa cha. Cha đang nói rằng kim tự tháp này có thể biến đổi về mặt vật lý theo đúng nghĩa đen phải không ạ?- Giáo sư, nếu tôi ra tay biến hoá kim tự tháp ngay tại đây, anh sẽ tin những gì mình chứng kiến chứ?Langdon không biết trả lời sao.- Con cho rằng chẳng còn lựa chọn nào khác.- Tốt lắm. Lát nữa thôi, tôi sẽ làm đúng như thế - ông lại thấm miệng - Cho phép tôi nhắc quý vị rằng đã có thời ngay cả những bộ óc sáng láng nhất cũng tin là trái đất dẹt, vì nếu trái đất tròn thì chắc chắn các đại dương sẽ chảy trôi hết. Thử tưởng tượng xem họ sẽ chỉ trích thế nào nếu các vị tuyên bố “Trái đất không chỉ hình cầu mà còn tồn tại một sức mạnh bí ẩn vô hình giữ mọi thứ lại trên bề mặt của nó”!- Nhưng lực hấp dẫn thì khác xa khả năng biến cải đồ vật bằng cách chạm tay của cha chứ, - Langdon phản đối.- Thế ư? Không lẽ chúng ta vẫn đang sống trong đêm trường Trung cổ, vẫn ham chỉ trích lời gợi ý về các lực lượng “bí ẩn” mà chúng ta không thể nhìn thấy hoặc hiểu được? Lịch sử dạy chúng ta nhiều điều, một trong số đó là đừng cười nhạo những ý tưởng kỳ lạ, vì một ngày kia chúng sẽ trở thành chân lý đáng phụng thờ. Tôi tuyên bố có thể biến đổi kim tự tháp này chỉ với một cái chạm tay, và anh nghi ngờ sự tỉnh táo của tôi. Sẽ khả quan hơn nếu anh là một nhà sử học. Lịch sử đầy rẫy những bộ óc vĩ đại từng công bố bao điều tương tự, họ nhất quyết cho rằng con người sở hữu nhiều khả năng bí ẩn mà tự mình lại không hay biết.Langdon hiểu rằng đức cha nói đúng. Câu cách ngôn nổi tiếng của phái Hermes: “Các ngươi không biết mình là thần thánhư?” là một trong những nền tảng của các Bí mật cổ xưa. Thương hạ tương liên…Con người được tạo ra theo hình ảnh của Chúa… Phong thần. Bức thông điệp về khả năng thần thánh (hoặc tiềm năng ẩn kín) của chính con người là chủ đề được nhắc đi nhắc lại trong văn tự cổ của rất nhiều tín ngưỡng: Thậm chí Kinh thánh cũng nói: Các con là Chúa (Thánh ca 82:6)!- Giáo sư. - Galloway lên tiếng - tôi nhận ra rằng anh, cũng như nhiều người có học thức khác, thường kẹt giữa các thế giới, một chân trong tâm linh, một chân trong vật chất. Lòng anh khát khao muốn tin nhưng tri thức của anh lại từ chối chấp nhận. Là một học giả, anh nên học hỏi những bộ óc vĩ đại của lịch sử - ông ngừng lời và hằng giọng - Nếu tôi nhớ không lầm thì một trong những bộ óc vĩ đại nhất từng phát biểu: “Thực tế vẫn tồn tại nhiều điều chúng ta không lý giải nổi. Đằng sau bí ẩn của tự nhiên còn lắm thứ tinh tế, vô hình và khó diễn tả. Tôn giáo của tôi chính là lòng tôn kính dành cho những sức mạnh nằm ngoài khả năng lĩnh hội của con người”.- Ai nói câu đó nhỉ? - Langdon thắc mắc - Gandhi à?- Không, - Katherine nhắc - Albert Einstein.Katherine Solomon đã đọc toàn bộ trước tác của Einstein và rất ấn tượng trước sự sùng kính sâu sắc ông dành cho những điều bí ẩn. Einstein còn tiên đoán rằng một ngày nào đó công chúng sẽ cảm nhận được như mình. Tôn giáo của tương lai, ông dự báo, là một tôn giáo vũ trụ. Nó sẽ vượt cả Chúa trời, sẽ chẳng có giáo lý hay học thuyết.Dường như Robert Langdon đang phải đánh vật với ý tướng này.Katherine có thể cảm nhận được sự thất vọng ngày càng tăng của anh đối với vị giám mục già, và cô hiểu vì sao. Họ lặn lội đến đây để tìm câu trả lời nhưng chỉ gặp được một ông già mù huyên thiên về việc biến đổi đồ vật bằng một cái chạm tay. Niềm say mê thái quá của Galloway đối với các sức mạnh bí ẩn còn khiến Katherine nhớ tới anh trai cô.- Thưa cha - Katherine nói - anh Peter đang gặp nguy hiểm. Chúng con thì bị CIA truy đuổi. Warren Bellamy đặn chúng con tới đây để nhờ cha giúp đỡ. Con không biết kim tự tháp ngụ ý gì hay chỉ dẫn tới đâu nhưng nếu việc giải mã có thể giúp Peter thì chúng con sẽ làm. Ông Bellamy dặn hãy giấu kín ngọn tháp, dù phải hy sinh mạng sống của Peter, nhưng gia đình con chẳng gặt hái được gì từ nó, trừ đau khổ. Bất kể kim tự tháp đang gìn giữ bí mật nào thì nó cũng sẽ kết thúc tối nay.- Cô nói đúng, - ông già đáp, giọng chua chát - Nó sẽ kết thúc tối nay. Cô đã thu xếp để điều đó chắc chắc xảy ra rồi - ông thở dài - Cô Solomon, gỡ niêm phong cái hộp tức là khởi động một loạt sự kiện vô phương cứu chữa. Có những sức mạnh đã vận hành mà các vị vẫn chưa hay biết. Không thể vãn hồi được nữa đâu.Katherine sửng sốt nhìn đức cha. Có sắc thái tiên tri trong giọng nói của ông già, cứ như thể ông đang đề cập đến bảy niêm ấn ở sách Khải Huyền hoặc cái hộp Pandora(93) vậy.- Thưa cha, - Langdon xen vào - Một kim tự tháp đá mà khởi động được sự kiện gì đó ư? Con không tài nào hiểu nổi.- Dĩ nhiên là anh không hiểu, Giáo sư ạ - ông già trân trân nhìn lại - Mắt anh chưa có khả năng nhận ra điều đó. Chú thích:(92) Excalibur là thanh kiếm huyền thoại của Vua Arthur, có ẩn chứa sức mạnh huyền bí bên trong và tượng trưng cho chủ quyền hợp pháp đối với Vương quốc Anh. Theo Từ điển về Thành ngữ và Truyện ngụ ngôn của tác giả Ebenezer Cobham Brewer,Excalibur được vay mượn từ thành ngữ Latin Ex calce liberatus hay “liberated from the stone” (giải phóng từ phiến đá). TrongCái chết của vua Arthur, Thomas Malory cho rằng Excalibur mang nghĩa “cắt thép”. Theo những tư liệu còn lại về vua Arthur, có hai huyền thoại tách bạch nhau về xuất xứ của thanh kiếm. Đầu tiên là “Thanh kiếm trong đá”, xuất hiện đầu tiên trong bài thơMerlin của Robert de Boron, trong đó Excalibur chỉ có thể được rút ra khỏi đá bởi Arthur, vị vua hợp pháp. Truyền thuyết thứ hai xuất hiện trong sách Post-Vulgate Suite du Merlin (về sau được Thomas Malory sử dụng trong tác phẩm của mình). Ở đây, Arthur nhận được Excalibur từ Tiên nữ của Hồ nước sau khi làm gãy thanh gươm đầu tiên của mình trong một cuộc đánh nhau với vua Pellinore. Vị tiên đã miêu tả thanh kiếm “Excalibur, thanh kiếm cắt thép”, và Arthur nhận nó từ một cánh tay đưa lên khỏi mặt hồ. Khi Arthur sắp chết. Ông bảo Sir Bedivere trả lại thanh kiếm bằng cách ném nó xuống hồ. Trước khi thanh kiếm chạm mặt nước, một cánh tay trồi lên tóm lấy thanh gươm và kéo nó xuống hồ. Cả hai mặt của lưỡi kiếm Excalibur đều có khắc chữ. Một mặt là “take me up” (Vung tôi lên), trên một mặt kia là “cast me away” (Ném tôi đi), tiên đoán trước việc Excalibur sẽ trở về với nước. Thêm vào đó, khi Excalibur được rút ra khỏi vỏ lần đầu tiên, lưỡi kiếm phát ra ánh sáng như của ba mươi ngọn đuốc, làm loá mắt kẻ thù. Ngay cả vỏ của Excalibur cũng có năng lực riêng: người cầm nó sẽ không bị nguy hiểm đến tính mạng vì bị thương hay mất máu. Về sau. Morgan le Fay lấy trộm vỏ kiếm và ném xuống hồ, và vỏ kiếm mất tích từ ấy - ND.(93) Trong thần thoại Hy Lạp, Pandora là người phụ nữ đầu tiên. Thần Zeus ra lệnh cho thần thợ rèn Hephaestus tạo ra nàng từ đất như một hình phạt đối với loài người do việc Prometheus lấy trộm lửa. Mỗi vị thần giúp tạo ra nàng bằng cách tặng cho nàng một tài năng riêng. Theo truyền thuyết, do tính tò mò, Pandora đã mở một cái vò, làm tất cả những thói xấu của loài người thoát ra, chỉ còn xót lại đúng Hy vọng do nàng kịp đóng nắp vò lại - ND.Giữa không khí ẩm ướt của Rừng rậm, Bellamy vẫn cảm nhận được mồ hôi đang lăn dọc lưng mình. Cổ tay bị còng đau nhói, nhưng mọi sự chú ý của ông đều tập trung vào cái cặp titan đáng ngại mà Sato vừa mở ra trên chiếc ghế băng giữa hai người.Những gì trong chiếc cặp này, Sato đã nói, sẽ buộc ông phải nhìn nhận mọi việc theo cách của tôi. Tôi bảo đảm điều đó.Người phụ nữ châu Á nhỏ thó mở chiếc cặp kim loại ngoài tầm mắt của Bellamy nên ông vẫn chưa nhìn được bên trong nó, thay vào đó trí tưởng tượng của ông liền hoạt động rất ghê. Hai tay Sato đang thao tác trong lòng chiếc cặp, và Bellamy đoán rằng bà ta sắp sửa lôi ra một loạt dụng cụ sắc lém, sáng loáng.Đột nhiên một nguồn sáng nhấp nháy bên trong chiếc cặp, càng lúc càng rực rỡ hơn, soi rõ khuôn mặt Sato. Hai tay bà ta vẫn tiếp tục hoạt động, và màu sắc ánh sáng thay đổi. Một lúc sau, Sato nhấc tay ra, nắm lấy toàn bộ chiếc cặp và xoay nó về phía Bellamy để ông nhìn được bên trong.Bellamy phải nheo mắt lại trước ánh sáng của một thứ có lẽ là máy tính xách tay đời mới kèm ống nghe điện thoại, hai chiếc ăng ten và một bàn phím kép. Thoạt tiên Bellamy thấy nhẹ cả người, song cảm giác ấy mau chóng chuyển thành tâm trạng bối rối khó hiểu.Màn hình mang biểu tượng của CIA và dòng chữ:BẢO MẬT TRUY CẬPNGƯỜI SỬ DỤNG: INOUE SATOCẤP PHÉP BẢO MẬT: CẤP ĐỘ 5Bên dưới cửa sổ truy cập của máy tính, một biểu tượng đang nhấp nháy:“Xin đợi một lát…”ĐANG GIẢI Mà TỆP TIN…Bellamy đưa mắt nhìn Sato, bà ta cũng đang ngó ông đăm đăm.- Tôi không muốn để ông trông thấy thứ này. - bà ta nói - Nhưng ông khiến tôi không còn lựa chọn nào khác.Màn hình lại nhấp nháy, Bellamy liếc xuống khi file dữ liệu mở ra, nội dung của nó tràn kín toàn bộ màn hình LCD.Bellamy nhìn sững màn hình, cố gắng ghi nhận những thông tin xuất hiện. Dần dần hiểu ra, ông cảm thấy máu rút hết khỏi mặt mình.Ông trợn mắt kinh hãi, không tài nào ngoảnh đi nổi.- Nhưng… không thể nào! - viên Kiến trúc sư kêu lên - Tại sao… lại như thế được?Mặt Sato đằng đằng sát khí.- Nói đi, ông Bellamy. Ông phải nói cho tôi biết.Khi đã thực sự thấu hiểu ý nghĩa của những điều phơi bày trên màn hình, Warren Bellamy cảm thấy toàn bộ thế giới đang chao đảo quay cuồng bên bờ thảm hoạ.Lạy Chúa… mình đã phạm một sai lầm khủng khiếp!Chương 84Đức cha Galloway cảm thấy tràn đầy sức sống.Cũng như tất cả mọi người, ông biết rằng rồi có lúc mình sẽ phải trút bỏ xác phàm, nhưng tối nay chưa phải là thời khắc đó. Quả tim của ông đang đập nhanh, mạnh… tâm trí thì hoàn toàn sáng suốt.Còn có việc phải làm.Khi lướt đôi tay viêm khớp qua các bề mặt nhẵn nhụi của kim tự tháp, Galloway không dám tin vào cảm nhận của mình. Chưa bao giờ ta ngò rằng đời ta sẽ được chứng kiến khoảnh khắc này. Bao nhiêu thế hệ qua, các mảnh của tấm bản đồ biểu hình bị tách rời và luôn được giữ gìn sao cho cách xa nhau. Giờ thì Châu về Hợp Phố.Galloway tự hỏi phải chăng đây là thời khắc đã được dự báo trước.Thật lạ là số phận chỉ định hai người không phải hội viên Tam điểm để ráp cái kim tự tháp. Dù sao thì điều đó cũng có vẻ phù hợp.Những bí mật đang di chuyển ra khỏi nội bộ… ra khỏi bóng tối…tiến vào ánh sáng.- Giáo sư, - cha chánh xứ lên tiếng, xoay đầu về hướng có tiếng thở của Langdon - Peter đã nói tại sao ông ấy muốn anh trông giữ cái gói nhỏ chưa?- Ông ấy kể rằng có những nhân vật quyền thế muốn đánh cắp nó - Langdon đáp.Cha chánh xứ gật đầu.- Phải. Peter cũng nói với tôi như vậy.- Thế ạ? - Bên trái Galloway, tiếng Katherine đột ngột vang lên - Anh con đã trao đổi với cha về kim tự tháp này?- Dĩ nhiên. - Galloway đáp - Anh cô và tôi từng thảo luận rất nhiều chuyện. Tôi nguyên là Đại Huynh trưởng tại Thánh điện, và thỉnh thoảng anh cô vẫn đến gặp tôi hỏi ý kiến. Chừng một năm trước, anh ta có tới đây, tâm trạng vô cùng bối rối. Anh ấy ngồi đúng chỗ cô đang ngồi bây giờ, và hỏi tôi có tin vào những điềm báo siêu nhiên không.- Điềm báo ư? - Katherine kêu lên đầy lo lắng - Ý cha là… những ảo mộng?- Không hẳn. Bản năng hơn cơ. Peter kể rằng anh ta cảm thấy một thế lực hắc ám hiện diện ngày càng rõ trong cuộc sống của mình. Có gì đó đang theo dõi… rình rập… tìm cách hãm hại anh ấy.- Rõ ràng Peter đã đúng. - Katherine đồng tình - vì chính cái gã giết mẹ chúng tôi và Zachary lại mò tới Washington, rồi trở thành một trong những huynh đệ Tam điểm của Peter.- Phải - Langdon tham gia câu chuyện - nhưng điều đó không giải thích được sự can thiệp của CIA.Galloway lưỡng lự.- Những kẻ có quyền luôn tìm cách có nhiều quyền lực hơn nữa.- Nhưng… còn CIA? - Langdon hỏi xoáy thêm - Và các bí mật khó hiểu? Vẫn còn thiếu dữ kiện nào đó.- Đúng như vậy, - Katherine tán thành - CIA phát triển nhờ các tiến bộ công nghệ và luôn thử nghiệm các môn khoa học bí ẩn như ESP, theo dõi từ xa, tước đoạt giác quan và các trạng thái tâm thần kích thích mạnh bằng dược lý. Tất cả đều chỉ là một, đó là khai thác tiềm năng trong trí não con người. Một trong những điều tôi học được từ anh Peter là: Khoa học và chủ nghĩa thần bí có liên hệ rất mật thiết chỉ phân biệt với nhau qua cách tiếp cận. Mục tiêu của chúng giống nhau… nhưng phương pháp thì khác hẳn.- Nghe Peter nói, lĩnh vực nghiên cứu của cô là một dạng khoa học thần bí hiện đại, đúng không? - Galloway hỏi.Lý trí học. - Katherine gật đầu đáp - Và nó đang chứng minh rằng con người có những sức mạnh mà chính bản thân họ không thể hình dung nổi - Cô ra dấu về phía một ô cửa sổ lắp kính màu mô tả hình ảnh “Jesus toả sáng, quen thuộc, tức là hình Đức Chúa với hào quang toả ra từ đầu và tay - Trên thực tế, con chỉ dùng thiết bị tích điện kép (CDD) hạ nhiệt để chụp bàn tay một thầy lang chữa bệnh bằng đức tin. Kết quả thu được là những dòng năng lượng tuôn trào qua các đầu ngón tay trong khi ông ta làm việc… y như hình ảnh Jesus trong ô cửa sổ lắp kính màu của cha kia.Một trí óc được đào tạo rất bài bản, Galloway nghĩ thầm, cố giấu một nụ cười. Cô có biết Jesus chữa bệnh như thế nào không?- Con nhận ra rằng, - Katherine tiếp - y học hiện đại cười nhạo các thầy lang và thầy pháp, nhưng con đã tận mắt chứng kiến công việc của họ. Các máy ảnh CCD ghi lại rất rõ cảnh thầy lang truyền một trường năng lượng lớn từ các đầu ngón tay sang bệnh nhân và làm thay đổi cấu trúc tế bào của họ, đúng như thế. Nếu đó không phải là sức mạnh thần thánh thì thật không biết gọi là gì.Đức cha Galloway phì cười. Katherine có niềm đam mê nhiệt thành y hệt anh trai cô.- Peter từng so sánh Lý trí học với những người tiên phong bị chế giễu vì kiên trì với ý tưởng dị giáo về một trái đất hình cầu xưa kia.Chỉ qua một đêm, những người mở đường ấy từ hạng ngu ngốc trở thành các anh hùng, khám phá ra nhiều thế giới mới mẻ và nới rộng đường chân trời cho cả nhân loại trên hành tinh. Peter nghĩ rằng cô cũng sẽ làm được như thế. Anh ấy rất kỳ vọng vào công việc của cô. Suy cho cùng, mọi thay đổi triết học lớn trong lịch sử đều bắt đầu từ một ý tưởng mạnh dạn.Dĩ nhiên, Galloway biết rằng người ta không nhất thiết phải vào phòng thí nghiệm để tận mắt trông thấy bằng chứng về ý tưởng mới mẻ táo bạo hay nghe lời đề xuất về tiềm năng chưa khai phá của con người. Chính Đại Giáo đường này đã từng tổ chức nhiều buổi cầu nguyện chữa bệnh cho người ốm và liên tục chứng kiến những kết quả thực sự kỳ diệu, những biến đổi vật lý đáng được ghi chép về mặt y học. Vấn đề không nằm ở chỗ liệu có phải Chúa đã ban cho con người sức mạnh to lớn hay không… mà ở chỗ chúng ta làm cách nào giải phóng được sức mạnh ấy.Đức Cha kính cẩn vòng hai bàn tay quanh Kim tự tháp Tam điểm và nói khẽ.- Các bạn, tôi không biết chính xác ngọn tháp chỉ tới đâu… nhưng tôi biết rõ điều này. Có một kho báu tinh thần rất lớn được cất giấu đâu đó ngoài kia… một kho báu đã kiên nhẫn chờ đợi trong bóng tối hàng bao thế hệ. Tôi tin rằng nó là tác nhân có sức mạnh biến đổi cả thế giới - ông chạm tay vào phần đỉnh chóp vàng - Kim tự tháp hoàn chỉnh đã được ráp lại… thời khắc lịch sử sắp đến. Cổ nhân đã tiên đoán về khả năng của một giai đoạn khai sáng có tính bước ngoặt… Tại sao lại không nhỉ?- Thưa cha, - Langdon lên tiếng, giọng khiêu khích - tất cả chúng ta đều đã quá quen với sự mặc khải của Thánh John và ý nghĩa thật sự của sách Khải huyền, nhưng lời tiên tri trong Kinh thánh thì hầu như không…- Ôi lạy Chúa, sách Khải huyền là một mớ rác rưởi - đức cha đáp - Chịu chẳng biết đọc nó thế nào. Tôi đang đề cập đến những trí tuệ sáng láng diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ minh bạch, chẳng hạn các dự đoán của Thánh Augustine, Tử tước Francis Bacon, Newton, Einstein, và còn nhiều nhiều nữa, tất cả đều tiên đoán về một thời điểm khai sáng mang tính biến đổi. Ngay cả Jesus cũng nói “Chẳng có gì giấu giếm được mãi, và cũng chẳng có bí mật nào lại không lộ ra ánh sáng”.- Đó là lời tiên đoán rất an toàn, - Langdon nói - Kiến thức phát triển theo cấp số nhân. Chúng ta càng biết nhiều thì khả năng học hỏi càng lớn, và tốc độ mở mang cơ sở tri thức càng cao hơn.- Đúng vậy, - Katherine thêm vào - Có thể thấy rõ điều đó trong khoa học. Mỗi công nghệ mới sáng chế đều trở thành phương tiện để phát minh ra những công nghệ mới khác… và nó cứ thế mà phát triển. Đó là lý do tại sao năm năm qua khoa học lại tiến nhanh hơn so với cả năm ngàn năm trước đó. Một sự phát triển ghê gớm. Ví von theo kiểu toán học là cùng với thời gian, đường cong hàm mũ mô tả quá trình gần như trở thành đường thẳng đứng, và sự phát triển diễn ra nhanh kinh khủng.Căn phòng chìm vào im lặng. Cha Galloway cảm thấy hai vị khách của mình vẫn chưa suy luận được bằng cách nào kim tự tháp sẽ dẫn họ tới những phát hiện mới. Đó là lý do vì sao số phận đưa các vi đến với tôi, ông nghĩ thầm. Tôi phải đảm nhân vai trò này.Đã nhiều năm, Đức cha Colin Galloway, cùng với các huynh đệ Tam điểm của mình, giữ vai trò người gác cổng. Còn giờ đây mọi thứ đang thay đổi.Ta không còn là người gác cổng nữa… Ta là người chỉ đường.- Giáo sư Langdon? - Galloway lên tiếng, vươn tay qua bàn - Hãy cầm lấy tay tôi.Robert Langdon do dự ngó bàn tay Galloway chìa ra trước mặt mình.- Chúng ta sắp cầu nguyện ư?Rất nhã nhặn, anh đặt bàn tay phải của mình vào bàn tay nhăn nhúm của cha chánh xứ. Ông già nắm lấy nhưng không cầu nguyện. Thay vào đó, ông lần tìm ngón trỏ của Langdon và đưa nó vào lòng hộp đá từng cất giữ chóp vàng.- Mắt anh đã đánh lừa anh. - cha chánh xứ nói - Phải chi nhìn bằng đầu ngón tay như tôi thì anh sẽ nhận ra rằng cái hộp này còn điều đáng lưu tâm.Langdon nghiêm túc đưa đầu ngón tay miết xung quanh lòng hộp, nhưng anh chẳng cảm thấy gì. Bên trong hoàn toàn nhẵn nhụi.- Cứ tìm kỹ đi. - Galloway nhắc.Cuối cùng, đầu ngón tay của Langdon cũng nhận ra một vòng tròn nhỏ xíu nhô lên, một chấm cực nhỏ ở chính giữa đáy hộp. Anh bỏ tay ra và săm soi kỹ càng bên trong. Anh không thể nhìn thấy chấm tròn nọ bằng mắt thường. Nó là gì nhỉ?- Anh có nhận ra biểu tượng đó không? - Galloway hỏi.- Biểu tượng ư? - Langdon nói - Con chẳng nhìn thấy gì cả.- Ấn mạnh nó xem nào.Langdon làm đúng như yêu cầu, ấn đầu ngón tay xuống cái chấm.Ông ấy mong đợi chuyện gì xảy ra đây.- Nhấn ngón tay của anh xuống - cha chánh xứ nhắc - ấn mạnh.Langdon liếc nhìn Katherine, cô bối rối đưa tay vén một lọn tóc ra sau tai.Vài giây trôi qua, cha chánh xứ gật đầu.- Được rồi, bỏ tay ra đi. Quá trình giả kim đã hoàn tất.Giả kim ư? Robert Langdon buông tay khỏi cái hộp đá và ngơ ngác ngồi im. Chẳng có gì thay đổi. Cái hộp vẫn nằm nguyên trên bàn.- Có gì đâu, - Langdon nói.- Hãy kiểm tra đầu ngón tay anh xem, - cha chánh xứ bảo - Anh sẽ thấy một sự biến đổi.Langdon nhìn ngón tay mình, sự biến đổi duy nhất là trên da anh xuất hiện vết lõm do một cục bướu tròn tạo ra: một vòng tròn nhỏ xíu với một chấm ở chính giữa.ẢNH- Bây giờ anh đã nhận ra biểu tượng chưa? - Galloway hỏi.Langdon đã nhận ra, nhưng việc ông già cảm nhận rõ đến từng chi tiết mới thực sự khiến anh ấn tượng. Nhìn bằng đầu ngón tay quả là một kỹ năng cao siêu.- Đó là thuật giả kim, - Katherine nói, xích ghế của mình vào gần hơn và nhìn kỹ ngón tay Langdon - Đây là biểu tượng cổ của vàng.- Đúng vậy - Galloway mỉm cười và vỗ lên cái hộp - Chúc mừng Giáo sư. Anh đã giành được thứ mà mọi nhà giả kim trong lịch sử đều mong ước. Từ một chất liệu vô giá trị, anh đã tạo ra vàng.Langdon cau mày thờ ơ. Mẹo vặt của Galloway xem ra chẳng mấy hữu ích.- Một ý tưởng rất thú vị, thưa cha, nhưng con e rằng biểu tượng vòng tròn với một chấm chính giữa này có tới hàng chục ý nghĩa. Nó được gọi là bàn huyền điểm, và là một trong những biểu tượng được sử dụng rộng rãi nhất trong lịch sử.- Anh đang nói gì thế? - cha chánh xứ hỏi, giọng đầy vẻ hoài nghi.Langdon sửng sốt vì một hội viên Tam điểm lại không thông thuộc ý nghĩa tinh thần của biểu tượng này.- Thưa cha, bàn huyền điểm có vô số nghĩa. Ở Ai Cập cổ đại, nó đại diện cho thần mặt trời Ra, thiên văn học hiện đại vẫn sử dụng nó như biểu tượng của vầng thái dương. Trong triết học phương Đông, bàn huyền điểm thể hiện sự thấu suốt về mặt tinh thần của Huệ nhãn, của hoa hồng thiêng liêng, và là biểu tượng của sự khai trí. Các tín đồ Kabbalah dùng nó để chỉ Kether (Sephiroth(94) tối cao và “điều sâu kín nhất trong tất cả những điều sâu kín”). Chủ nghĩa thần bí sơ khai gọi bàn huyền điểm là Thần nhãn, nó cũng là nguồn gốc của Thấu nhãn trên dấu Quốc ấn. Những người theo trường phái Pythagoras sử dụng bàn huyền điểm làm hình ảnh đại diện cho Monad - Chân lý Thần thánh, Kiến thức Nguyên thuỷ, sự tương thông giữa trí tuệ và tâm hồn, và…- Thôi đủ rồi! - Galloway bật cười - Cảm ơn Giáo sư. Anh nói rất đúng.Langdon nhận ra đức cha vừa đùa cợt mình. Ông ấy biết rõ tất cả.- Bàn huyền điểm, - Galloway nói, vẫn tủm tỉm cười - là biểu tượng của Bí ẩn cổ xưa. Vì lý do đó, tôi cho rằng không phải ngẫu nhiên mà nó hiện diện trong hộp. Theo truyền thuyết, bí mật của tấm bản đồ này được cất giấu ở những chi tiết nhỏ nhất.- Hay lắm, - Katherine lên tiếng - nhưng ngay cả khi người ta cố ý bố trí biểu tượng này ở đây thì nó cũng chẳng đưa chúng ta đến gần việc giải mã hơn chút nào, phải không ạ?- Lúc nãy cô nói dấu sáp niêm phong mà cô bóc có in hình chiếc nhẫn của Peter?- Vâng.- Và anh thì mang theo chiếc nhẫn đó?- Vâng - Langdon thọc tay vào túi, anh móc chiếc nhẫn ra khỏi túi nhựa rồi đặt lên bàn trước mặt cha chánh xứ.Galloway nhặt chiếc nhẫn và bắt đầu sờ các bề mặt của nó.- Chiếc nhẫn độc đáo này được tạo ra cùng thời Kim tự tháp Tam điểm. Theo truyền thống thì hội viên nào chịu trách nhiệm bảo vệ kim tự tháp sẽ đeo nhẫn. Tối nay, khi phát hiện bàn huyền điểm nhỏ xíu ở đáy hộp đá, tôi đã nhận ra rằng chiếc nhẫn là một phần của biểu hình.- Thật thế ư?- Tôi đoán chắc như vậy. Peter là người bạn thân nhất của tôi, anh ấy đã đeo chiếc nhẫn này nhiều năm rồi. Tôi rất quen thuộc với nó - ông già trả chiếc nhẫn lại cho Langdon - Anh tự xem đi.Langdon nhận lấy chiếc nhẫn và cẩn thận kiểm tra. Anh rà các ngón tay lên con phượng hoàng hai đầu, con số 33, dòng chữ ORDO AB CHAO, và cả dòng chữ Tất cả được tiết lộ ở cấp 33… vẫn không nhận thấy chi tiết nào hữu dụng. Sau đó, khi lần xuống xung quanh vành ngoài đai nhẫn, Langdon đột ngột dừng lại. Anh giật mình lật chiếc nhẫn lên và chăm chú quan sát đáy đai nhẫn.Galloway hỏi:- Anh tìm thấy rồi phải không?- Con nghĩ là như vậy! - Langdon đáp.Katherine xích ghế lại gần hơn.- Gì vậy?- Dấu hiệu cấp độ trên đai nhẫn, - Langdon đáp, chìa cho cô xem - Nó nhỏ đến mức ta không phát hiện nổi bằng mắt thường, nhưng khi sờ bằng tay, ta có thể khẳng định là nó ăn lõm xuống, giống một dấu khắc tròn nhỏ xíu.Dấu hiệu cấp độ bố trí ở chính giữa phần đáy đai nhẫn… và phải thừa nhận rằng trông đúng bằng kích cỡ của cái chấm nổi ở đáy hộp.- Cùng cỡ thì phải? - Katherine nhích lại gần hơn nữa, miệng kêu lên đầy phấn khích.- Có một cách kiểm chứng - Langdon cầm chiếc nhẫn và đưa vào trong hộp, lựa cho hai hình tròn trùng khít nhau. Khi anh ấn xuống, vòng tròn nổi trong hộp khớp đúng vào phần lõm của chiếc nhẫn. Có một tiếng tách mơ hồ nhưng đanh gọn.Tất cả cùng nhổm dậy.Langdon chờ đợi, nhưng không có gì khác lạ.- Sao thế?! - cha chánh xứ hỏi.- Chẳng có gì cả, - Katherine đáp - Cái nhẫn khớp đúng chỗ… nhưng không có gì xảy ra hết.- Không có sự biến đổi lớn lao nào ư? - Galloway lộ vẻ bối rối.Chưa xong, Langdon ngẫm nghĩ, đăm đăm nhìn xuống phù hiệu phượng hoàng hai đầu và con số 33 đúc nổi của chiếc nhẫn. Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33. Anh suy nghĩ rất lung, về Pythagoras, về hình học thiêng liêng, về các góc, rồi băn khoăn tự hỏi liệu cấp độ có mang ý nghĩa toán học nào không.Nhịp tim dần đập rộn lên, Langdon đưa tay cầm chiếc nhẫn đang dính chặt lấy đáy hộp. Sau đó anh chậm rãi xoay nó sang phải. Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33.Anh xoay chiếc nhẫn 10 độ… 20 độ… 30 độ…Những gì xảy đến tiếp theo, Langdon chưa bao giờ chứng kiến cả.Chú thích:(94) Cây Sephiroth bao gồm 10 vòng tròn, đại diện cho các con số từ 1 đến 10 và được liên kết với nhau bằng 22 kênh - 22 chữ cái Do Thái. Mười số và 22 chữ cái tạo ra con số huyền bí 32, biểu hiện cho 32 con đường đi tới Trí tuệ. Số và chữ được xem là chìa khoá mở kho tàng tri thức, vì bằng cách sắp xếp chúng theo một hệ thống bỉ mật, những điều bí ẩn của tạo hoá sẽ được hé lộ - ND

Đại Giáo đường Washington là nhà thờ lớn thứ sáu trên thế giới, cao hơn cả một cao ốc ba mươi tầng và chứa được hơn ba nghìn tín đồ cùng lúc. Kiệt tác theo phong cách Gothic này được tô điểm bằng hơn hai trăm ô cửa sổ lắp kính màu nghệ thuật, một chùm năm mươi ba quả chuông và một bộ đàn gồm 10.647 ống. Tuy nhiên tối nay, Đại Giáo đường hoàn toàn vắng lặng. Đức cha Colin Galloway - chánh xứ nhà thờ - trông như người đã sống tới mấy mươi đời. Còng gập và nhăn nheo trong bộ áo thầy tu màu đen giản dị, ông lầm lũi lê bước đi trước. Langdon và Katherine im lặng theo sau, xuyên qua bóng tối trải khắp 120 mét dọc sảnh chính, trên lối đi giữa hai hàng ghế giáo đường. Lối đi này lượn rất nhẹ sang trái, tạo cảm giác êm ái. Tới Giao lộ chính, cha chánh xứ dẫn họ bước qua vách ngăn toà giảng - vách ngăn tượng trưng giữa khu vực giáo dân với thánh điện bên kia. Thánh đường ngào ngạt mùi hương trầm. Không gian linh thiêng này ngập tràn bóng tối, chỉ tản mát chút ánh sáng phản xạ gián tiếp từ vòm trần trang trí hình lá bên trên. Cờ hiệu năm mươi bang treo cao trên vị trí của ban hợp xướng nhà thờ, xung quanh bày vài tấm bình phong chạm khắc các sự kiện trong kinh thánh. Cha Galloway vẫn đi tiếp, rõ ràng là đã thuộc lòng lộ trình. Có lúc, Langdon những tưởng họ đang tiến thẳng tới chỗ bàn thờ, nơi gắn mười phiến đá lấy từ núi Sinai, nhưng vị chánh xứ già lại rẽ sang trái và dò dẫm qua một cánh cửa ẩn kín dẫn vào gian trái dành cho công việc hành chính. Họ đi dọc một hành lang ngắn tới một văn phòng, ngoài cửa có tấm biển tên bằng đồng: ĐỨC CHA TIẾN SĨ COLLN GALLOWAYCHÁNH XỨ ĐẠI GIÁO ĐƯỜNG Galloway mở cửa và bật đèn, rõ ràng rất quen với việc ghi nhớ nghi thức xã giao dành cho khách khứa. Ông giục họ bước vào và đang cửa lại. Văn phòng chánh xứ nhỏ nhưng trang nhã, có nhiều giá sách cao, một bàn làm việc, một tủ chạm và một buồng tắm riêng. Trên tường treo mấy tấm thảm từ thế kỷ XVI và vài bức tranh tôn giáo. Vị chánh xứ già trỏ hai chiếc ghế da đặt đối diện bàn mình. Langdon ngồi xuống bên Katherine, lòng đầy cảm kích, vì cuối cùng cũng được buông chiếc túi nặng trịch ra. Anh thả nó xuống sàn nhà, ngay dưới chân. Nơi trú ẩn và câu trả lời, Langdon nghĩ thầm, yên vị trên chiếc ghế thoải mái. Ông già dò dẫm vòng ra sau bàn và ngồi xuống chiếc ghế có phần lưng tựa khá cao. Sau đó, thở ra mệt mỏi, ông ngẩng lên, đăm đăm nhìn họ qua đôi mắt mờ đục. Nhưng khi lên tiếng, giọng ông rõ và khỏe đến không ngờ.- Tôi biết là chúng ta chưa hề gặp nhau, - Galloway mở lời - nhưng tôi cảm thấy quen thuộc với cả hai vị.Ông rút khăn tay ra và chấm chấm lên miệng.- Giáo sư Langdon, những tác phẩm của anh không xa lạ gì với tôi, kể cả bài báo rất xuất sắc về những biểu tượng của nhà thờ này. Còn cô Solomon, anh trai Peter của cô và tôi là huynh đệ Tam điểm với nhau đã nhiều năm nay rồi.- Anh Peter đang gặp chuyện không hay, - Katherine bứt rứt báo.- Tôi có nghe nói - ông già thở dài - Và tôi sẽ dốc hết sức để giúp các vị. Langdon nhận thấy cha chánh xứ không đeo nhẫn Tam điểm trên tay, anh biết rằng nhiều hội viên, nhất là những người trong giới tu sĩ, thường chọn cách giấu kín thân phận của mình. Họ bắt đầu trò chuyện. Rõ ràng cha Galloway đã nắm được một vài diễn biến hồi tối nhờ tin nhắn của Warren Bellamy. Nay nghe Langdon và Katherine bổ sung phần còn lại, trông cha càng có vẻ lo lắng.- Tức là - đức cha nói - cái gã đã bắt cóc Peter yêu quý của chúng ta khăng khăng đòi Giáo sư giải mã kim tự tháp để đối lấy mạng sống của anh ấy?- Vâng, - Langdon đáp - Gã nghĩ đó là tấm bản đồ dẫn tới nơi cất giấu những Bí mật cổ xưa.Cha chánh xứ hướng đôi mắt mờ đục kỳ lạ của mình về phía Langdon.- Tai tôi mách cho tôi biết rằng Giáo sư hoài nghi Bí mật cổ xưa, bản đồ và mọi điều tương tự.Langdon không muốn lãng phí thời gian vào chủ đề này.- Con hoài nghi hay tin tưởng đều không quan trọng. Quan trọng là phải giúp Peter. Tiếc rằng khi chúng con giải mã xong kim tự tháp, nó cũng chẳng chỉ tới đâu cả.Ông già ngồi thẳng dậy.- Các vị đã giải mã kim tự tháp?Katherine bèn đỡ lời, nhanh nhẹn giải thích rằng mặc dù Bellamy đã cảnh báo và Peter cũng yêu cầu Langdon không được mở cái gói, nhưng cô vẫn mở ra vì ưu tiên trước nhất là giúp anh trai mình. Cô kể với cha chánh xứ về chóp vàng, về ma trận Albrecht Durer, và về việc ứng dụng nó để giải bức mật mã Tam điểm gồm mười sáu chữ cái thành câu Jeova Sanctus Unus.- Một Đức Chúa đích thực? Nó chỉ nói có vậy thôi à? - Galloway hỏi.- Vâng, thưa cha, - Langdon đáp - Rõ ràng kim tự tháp là một bản đồ ẩn dụ, chứ không phải bản đồ địa lý.Cha chánh xứ chìa tay.- Cho tôi sờ thử xem.Langdon mở khoá túi xách, lôi kim tự tháp ra và cẩn thận đặt nó lên bàn, ngay trước mặt đức cha.Langdon và Katherine lẳng lặng quan sát. Galloway dùng đôi tay gầy yếu kiểm tra từng phân đá, từ bề mặt khắc chữ đến phần đe trơn nhẵn và cuối cùng là chóp cụt. Kiểm tra xong, ông lại chìa tay ra.- Thế còn cái chóp?Langdon nhấc lấy hộp đá nhỏ, bê nó lên bàn và mở nắp, đoạn anh moi cái chóp, đặt nó vào hai tay ông già. Cha chánh xứ lại kiểm tra như lần trước, sờ kỹ từng phân, dừng lại lâu hơn ở mấy chữ chìm trên cái chóp, rõ ràng là hơi khó khăn để nhận biết dòng văn tự nhỏ xíu được khắc rất đẹp này.- Bí mật giấu trong Tổ Chức, - Langdon trợ giúp - Hai chữ Tổ vàChức viết hoa.Galloway đặt cái chóp lên kim tự tháp cụt và sờ soạng để khớp chúng vào nhau, khuôn mặt không biểu lộ điều gì. Ông ngừng lại chốc lát, như thể đang cầu nguyện, rồi kính cẩn đưa hai tay rờ rẫm khắp lượt ngọn tháp hoàn chỉnh vài lần. Sau đó, ông tìm cái hộp hình khối, cầm lên và cũng thám thính rất cẩn thận, các ngón tay dò kỹ cả bên trong và bên ngoài.Xong xuôi, Galloway thả hộp xuống và ngả người ra sau ghế.- Giờ hãy cho tôi biết, - ông lên tiếng, giọng đột nhiên trở nên nghiêm nghị - Tại sao các vị lại đến chỗ tôi?Câu hỏi khiến Langdon ngỡ ngàng.- Thưa cha, chúng con đến bởi vì cha bảo như vậy. Ông Bellamy cũng dặn chúng con hãy tin tưởng cha.- Thế nhưng hai vị không hề tin ông ấy cơ mà?- Con không hiểu?Đôi mắt trắng đục của cha chánh xứ nhìn xuyên qua Langdon.- Hộp đựng chóp có niêm phong. Bellamy dặn không được mở nó ra, nhưng các vị cứ mở. Thêm nữa, chính Peter Solomon cũng yêu cầu anh không được mở nó. Nhưng anh đã mở.- Thưa cha. - Katherine can thiệp - chúng con chỉ cố gắng giúp Peter. Cái tên bắt giữ anh ấy đòi phải giải mã…- Tôi có thể thông cảm, - cha chánh xứ tuyên bố - nhưng các vị thu được gì bằng cách mở gói ra? Chẳng có gì cả. Kẻ bắt giữ Peter đang tìm kiếm một địa điểm, và gã sẽ không thoả mãn với câu trả lời Jeova Sanctus Unus.- Con đồng ý, - Langdon thừa nhận - tiếc rằng kim tự tháp chỉ vỏn vẹn có vậy. Ở trên con đã nói, tấm bản đồ dường như mang tínhẩn dụ hơn là…- Anh lầm rồi, thưa Giáo sư, - cha chánh xứ ngắt lời - Kim tự tháp Tam điểm là một tấm bản đồ thực sự. Nó chỉ tới một địa điểm có thật Anh không hiểu điều đó, bởi vì anh chưa giải mã được đầy đủ kim tự tháp. Thậm chí còn chưa đến gần.Langdon và Katherine nhìn nhau kinh ngạc.Cha chánh xứ đặt hai tay lên ngọn tháp, gần như vuốt ve nó.- Tấm bản đồ này, cũng như bản thân Bí mật cổ xưa, có nhiều tầng ý nghĩa. Các vị vẫn chưa chạm đến bí mật đích thực của nó.- Thưa cha Galloway. - Langdon nói - Chúng con đã dò kỹ từng phân kim tự tháp và cái chóp, chẳng thấy gì khác cả.- Với hiện trạng này của nó thì không có đâu. Nhưng mọi vật thay đổi được mà.- Thưa cha?- Giáo sư, anh biết đấy, kim tự tháp này hứa hẹn một trong những sức mạnh biến cải phi thường. Theo truyền thuyết, nó có thể thay hình đổi dạng… biến đổi diện mạo vật chất của mình để tiết lộ các bí mật.Tương tự trường hợp hòn đá lừng danh đưa thanh kiếm Excalibur(92) vào tay Vua Arthur. Kim tự tháp Tam điểm có thể tự thay đổi theo lựa chọn… và tiết lộ bí mật của nó cho những người xứng đáng.Langdon cảm thấy tuổi tác đã làm ông già lẩn thẩn.- Con xin lỗi, thưa cha. Cha đang nói rằng kim tự tháp này có thể biến đổi về mặt vật lý theo đúng nghĩa đen phải không ạ?- Giáo sư, nếu tôi ra tay biến hoá kim tự tháp ngay tại đây, anh sẽ tin những gì mình chứng kiến chứ?Langdon không biết trả lời sao.- Con cho rằng chẳng còn lựa chọn nào khác.- Tốt lắm. Lát nữa thôi, tôi sẽ làm đúng như thế - ông lại thấm miệng - Cho phép tôi nhắc quý vị rằng đã có thời ngay cả những bộ óc sáng láng nhất cũng tin là trái đất dẹt, vì nếu trái đất tròn thì chắc chắn các đại dương sẽ chảy trôi hết. Thử tưởng tượng xem họ sẽ chỉ trích thế nào nếu các vị tuyên bố “Trái đất không chỉ hình cầu mà còn tồn tại một sức mạnh bí ẩn vô hình giữ mọi thứ lại trên bề mặt của nó”!- Nhưng lực hấp dẫn thì khác xa khả năng biến cải đồ vật bằng cách chạm tay của cha chứ, - Langdon phản đối.- Thế ư? Không lẽ chúng ta vẫn đang sống trong đêm trường Trung cổ, vẫn ham chỉ trích lời gợi ý về các lực lượng “bí ẩn” mà chúng ta không thể nhìn thấy hoặc hiểu được? Lịch sử dạy chúng ta nhiều điều, một trong số đó là đừng cười nhạo những ý tưởng kỳ lạ, vì một ngày kia chúng sẽ trở thành chân lý đáng phụng thờ. Tôi tuyên bố có thể biến đổi kim tự tháp này chỉ với một cái chạm tay, và anh nghi ngờ sự tỉnh táo của tôi. Sẽ khả quan hơn nếu anh là một nhà sử học. Lịch sử đầy rẫy những bộ óc vĩ đại từng công bố bao điều tương tự, họ nhất quyết cho rằng con người sở hữu nhiều khả năng bí ẩn mà tự mình lại không hay biết.Langdon hiểu rằng đức cha nói đúng. Câu cách ngôn nổi tiếng của phái Hermes: “Các ngươi không biết mình là thần thánhư?” là một trong những nền tảng của các Bí mật cổ xưa. Thương hạ tương liên…Con người được tạo ra theo hình ảnh của Chúa… Phong thần. Bức thông điệp về khả năng thần thánh (hoặc tiềm năng ẩn kín) của chính con người là chủ đề được nhắc đi nhắc lại trong văn tự cổ của rất nhiều tín ngưỡng: Thậm chí Kinh thánh cũng nói: Các con là Chúa (Thánh ca 82:6)!- Giáo sư. - Galloway lên tiếng - tôi nhận ra rằng anh, cũng như nhiều người có học thức khác, thường kẹt giữa các thế giới, một chân trong tâm linh, một chân trong vật chất. Lòng anh khát khao muốn tin nhưng tri thức của anh lại từ chối chấp nhận. Là một học giả, anh nên học hỏi những bộ óc vĩ đại của lịch sử - ông ngừng lời và hằng giọng - Nếu tôi nhớ không lầm thì một trong những bộ óc vĩ đại nhất từng phát biểu: “Thực tế vẫn tồn tại nhiều điều chúng ta không lý giải nổi. Đằng sau bí ẩn của tự nhiên còn lắm thứ tinh tế, vô hình và khó diễn tả. Tôn giáo của tôi chính là lòng tôn kính dành cho những sức mạnh nằm ngoài khả năng lĩnh hội của con người”.- Ai nói câu đó nhỉ? - Langdon thắc mắc - Gandhi à?- Không, - Katherine nhắc - Albert Einstein.Katherine Solomon đã đọc toàn bộ trước tác của Einstein và rất ấn tượng trước sự sùng kính sâu sắc ông dành cho những điều bí ẩn. Einstein còn tiên đoán rằng một ngày nào đó công chúng sẽ cảm nhận được như mình. Tôn giáo của tương lai, ông dự báo, là một tôn giáo vũ trụ. Nó sẽ vượt cả Chúa trời, sẽ chẳng có giáo lý hay học thuyết.Dường như Robert Langdon đang phải đánh vật với ý tướng này.Katherine có thể cảm nhận được sự thất vọng ngày càng tăng của anh đối với vị giám mục già, và cô hiểu vì sao. Họ lặn lội đến đây để tìm câu trả lời nhưng chỉ gặp được một ông già mù huyên thiên về việc biến đổi đồ vật bằng một cái chạm tay. Niềm say mê thái quá của Galloway đối với các sức mạnh bí ẩn còn khiến Katherine nhớ tới anh trai cô.- Thưa cha - Katherine nói - anh Peter đang gặp nguy hiểm. Chúng con thì bị CIA truy đuổi. Warren Bellamy đặn chúng con tới đây để nhờ cha giúp đỡ. Con không biết kim tự tháp ngụ ý gì hay chỉ dẫn tới đâu nhưng nếu việc giải mã có thể giúp Peter thì chúng con sẽ làm. Ông Bellamy dặn hãy giấu kín ngọn tháp, dù phải hy sinh mạng sống của Peter, nhưng gia đình con chẳng gặt hái được gì từ nó, trừ đau khổ. Bất kể kim tự tháp đang gìn giữ bí mật nào thì nó cũng sẽ kết thúc tối nay.- Cô nói đúng, - ông già đáp, giọng chua chát - Nó sẽ kết thúc tối nay. Cô đã thu xếp để điều đó chắc chắc xảy ra rồi - ông thở dài - Cô Solomon, gỡ niêm phong cái hộp tức là khởi động một loạt sự kiện vô phương cứu chữa. Có những sức mạnh đã vận hành mà các vị vẫn chưa hay biết. Không thể vãn hồi được nữa đâu.Katherine sửng sốt nhìn đức cha. Có sắc thái tiên tri trong giọng nói của ông già, cứ như thể ông đang đề cập đến bảy niêm ấn ở sách Khải Huyền hoặc cái hộp Pandora(93) vậy.- Thưa cha, - Langdon xen vào - Một kim tự tháp đá mà khởi động được sự kiện gì đó ư? Con không tài nào hiểu nổi.- Dĩ nhiên là anh không hiểu, Giáo sư ạ - ông già trân trân nhìn lại - Mắt anh chưa có khả năng nhận ra điều đó. Chú thích:(92) Excalibur là thanh kiếm huyền thoại của Vua Arthur, có ẩn chứa sức mạnh huyền bí bên trong và tượng trưng cho chủ quyền hợp pháp đối với Vương quốc Anh. Theo Từ điển về Thành ngữ và Truyện ngụ ngôn của tác giả Ebenezer Cobham Brewer,Excalibur được vay mượn từ thành ngữ Latin Ex calce liberatus hay “liberated from the stone” (giải phóng từ phiến đá). TrongCái chết của vua Arthur, Thomas Malory cho rằng Excalibur mang nghĩa “cắt thép”. Theo những tư liệu còn lại về vua Arthur, có hai huyền thoại tách bạch nhau về xuất xứ của thanh kiếm. Đầu tiên là “Thanh kiếm trong đá”, xuất hiện đầu tiên trong bài thơMerlin của Robert de Boron, trong đó Excalibur chỉ có thể được rút ra khỏi đá bởi Arthur, vị vua hợp pháp. Truyền thuyết thứ hai xuất hiện trong sách Post-Vulgate Suite du Merlin (về sau được Thomas Malory sử dụng trong tác phẩm của mình). Ở đây, Arthur nhận được Excalibur từ Tiên nữ của Hồ nước sau khi làm gãy thanh gươm đầu tiên của mình trong một cuộc đánh nhau với vua Pellinore. Vị tiên đã miêu tả thanh kiếm “Excalibur, thanh kiếm cắt thép”, và Arthur nhận nó từ một cánh tay đưa lên khỏi mặt hồ. Khi Arthur sắp chết. Ông bảo Sir Bedivere trả lại thanh kiếm bằng cách ném nó xuống hồ. Trước khi thanh kiếm chạm mặt nước, một cánh tay trồi lên tóm lấy thanh gươm và kéo nó xuống hồ. Cả hai mặt của lưỡi kiếm Excalibur đều có khắc chữ. Một mặt là “take me up” (Vung tôi lên), trên một mặt kia là “cast me away” (Ném tôi đi), tiên đoán trước việc Excalibur sẽ trở về với nước. Thêm vào đó, khi Excalibur được rút ra khỏi vỏ lần đầu tiên, lưỡi kiếm phát ra ánh sáng như của ba mươi ngọn đuốc, làm loá mắt kẻ thù. Ngay cả vỏ của Excalibur cũng có năng lực riêng: người cầm nó sẽ không bị nguy hiểm đến tính mạng vì bị thương hay mất máu. Về sau. Morgan le Fay lấy trộm vỏ kiếm và ném xuống hồ, và vỏ kiếm mất tích từ ấy - ND.(93) Trong thần thoại Hy Lạp, Pandora là người phụ nữ đầu tiên. Thần Zeus ra lệnh cho thần thợ rèn Hephaestus tạo ra nàng từ đất như một hình phạt đối với loài người do việc Prometheus lấy trộm lửa. Mỗi vị thần giúp tạo ra nàng bằng cách tặng cho nàng một tài năng riêng. Theo truyền thuyết, do tính tò mò, Pandora đã mở một cái vò, làm tất cả những thói xấu của loài người thoát ra, chỉ còn xót lại đúng Hy vọng do nàng kịp đóng nắp vò lại - ND.Giữa không khí ẩm ướt của Rừng rậm, Bellamy vẫn cảm nhận được mồ hôi đang lăn dọc lưng mình. Cổ tay bị còng đau nhói, nhưng mọi sự chú ý của ông đều tập trung vào cái cặp titan đáng ngại mà Sato vừa mở ra trên chiếc ghế băng giữa hai người.Những gì trong chiếc cặp này, Sato đã nói, sẽ buộc ông phải nhìn nhận mọi việc theo cách của tôi. Tôi bảo đảm điều đó.Người phụ nữ châu Á nhỏ thó mở chiếc cặp kim loại ngoài tầm mắt của Bellamy nên ông vẫn chưa nhìn được bên trong nó, thay vào đó trí tưởng tượng của ông liền hoạt động rất ghê. Hai tay Sato đang thao tác trong lòng chiếc cặp, và Bellamy đoán rằng bà ta sắp sửa lôi ra một loạt dụng cụ sắc lém, sáng loáng.Đột nhiên một nguồn sáng nhấp nháy bên trong chiếc cặp, càng lúc càng rực rỡ hơn, soi rõ khuôn mặt Sato. Hai tay bà ta vẫn tiếp tục hoạt động, và màu sắc ánh sáng thay đổi. Một lúc sau, Sato nhấc tay ra, nắm lấy toàn bộ chiếc cặp và xoay nó về phía Bellamy để ông nhìn được bên trong.Bellamy phải nheo mắt lại trước ánh sáng của một thứ có lẽ là máy tính xách tay đời mới kèm ống nghe điện thoại, hai chiếc ăng ten và một bàn phím kép. Thoạt tiên Bellamy thấy nhẹ cả người, song cảm giác ấy mau chóng chuyển thành tâm trạng bối rối khó hiểu.Màn hình mang biểu tượng của CIA và dòng chữ:BẢO MẬT TRUY CẬPNGƯỜI SỬ DỤNG: INOUE SATOCẤP PHÉP BẢO MẬT: CẤP ĐỘ 5Bên dưới cửa sổ truy cập của máy tính, một biểu tượng đang nhấp nháy:“Xin đợi một lát…”ĐANG GIẢI Mà TỆP TIN…Bellamy đưa mắt nhìn Sato, bà ta cũng đang ngó ông đăm đăm.- Tôi không muốn để ông trông thấy thứ này. - bà ta nói - Nhưng ông khiến tôi không còn lựa chọn nào khác.Màn hình lại nhấp nháy, Bellamy liếc xuống khi file dữ liệu mở ra, nội dung của nó tràn kín toàn bộ màn hình LCD.Bellamy nhìn sững màn hình, cố gắng ghi nhận những thông tin xuất hiện. Dần dần hiểu ra, ông cảm thấy máu rút hết khỏi mặt mình.Ông trợn mắt kinh hãi, không tài nào ngoảnh đi nổi.- Nhưng… không thể nào! - viên Kiến trúc sư kêu lên - Tại sao… lại như thế được?Mặt Sato đằng đằng sát khí.- Nói đi, ông Bellamy. Ông phải nói cho tôi biết.Khi đã thực sự thấu hiểu ý nghĩa của những điều phơi bày trên màn hình, Warren Bellamy cảm thấy toàn bộ thế giới đang chao đảo quay cuồng bên bờ thảm hoạ.Lạy Chúa… mình đã phạm một sai lầm khủng khiếp!Chương 84Đức cha Galloway cảm thấy tràn đầy sức sống.Cũng như tất cả mọi người, ông biết rằng rồi có lúc mình sẽ phải trút bỏ xác phàm, nhưng tối nay chưa phải là thời khắc đó. Quả tim của ông đang đập nhanh, mạnh… tâm trí thì hoàn toàn sáng suốt.Còn có việc phải làm.Khi lướt đôi tay viêm khớp qua các bề mặt nhẵn nhụi của kim tự tháp, Galloway không dám tin vào cảm nhận của mình. Chưa bao giờ ta ngò rằng đời ta sẽ được chứng kiến khoảnh khắc này. Bao nhiêu thế hệ qua, các mảnh của tấm bản đồ biểu hình bị tách rời và luôn được giữ gìn sao cho cách xa nhau. Giờ thì Châu về Hợp Phố.Galloway tự hỏi phải chăng đây là thời khắc đã được dự báo trước.Thật lạ là số phận chỉ định hai người không phải hội viên Tam điểm để ráp cái kim tự tháp. Dù sao thì điều đó cũng có vẻ phù hợp.Những bí mật đang di chuyển ra khỏi nội bộ… ra khỏi bóng tối…tiến vào ánh sáng.- Giáo sư, - cha chánh xứ lên tiếng, xoay đầu về hướng có tiếng thở của Langdon - Peter đã nói tại sao ông ấy muốn anh trông giữ cái gói nhỏ chưa?- Ông ấy kể rằng có những nhân vật quyền thế muốn đánh cắp nó - Langdon đáp.Cha chánh xứ gật đầu.- Phải. Peter cũng nói với tôi như vậy.- Thế ạ? - Bên trái Galloway, tiếng Katherine đột ngột vang lên - Anh con đã trao đổi với cha về kim tự tháp này?- Dĩ nhiên. - Galloway đáp - Anh cô và tôi từng thảo luận rất nhiều chuyện. Tôi nguyên là Đại Huynh trưởng tại Thánh điện, và thỉnh thoảng anh cô vẫn đến gặp tôi hỏi ý kiến. Chừng một năm trước, anh ta có tới đây, tâm trạng vô cùng bối rối. Anh ấy ngồi đúng chỗ cô đang ngồi bây giờ, và hỏi tôi có tin vào những điềm báo siêu nhiên không.- Điềm báo ư? - Katherine kêu lên đầy lo lắng - Ý cha là… những ảo mộng?- Không hẳn. Bản năng hơn cơ. Peter kể rằng anh ta cảm thấy một thế lực hắc ám hiện diện ngày càng rõ trong cuộc sống của mình. Có gì đó đang theo dõi… rình rập… tìm cách hãm hại anh ấy.- Rõ ràng Peter đã đúng. - Katherine đồng tình - vì chính cái gã giết mẹ chúng tôi và Zachary lại mò tới Washington, rồi trở thành một trong những huynh đệ Tam điểm của Peter.- Phải - Langdon tham gia câu chuyện - nhưng điều đó không giải thích được sự can thiệp của CIA.Galloway lưỡng lự.- Những kẻ có quyền luôn tìm cách có nhiều quyền lực hơn nữa.- Nhưng… còn CIA? - Langdon hỏi xoáy thêm - Và các bí mật khó hiểu? Vẫn còn thiếu dữ kiện nào đó.- Đúng như vậy, - Katherine tán thành - CIA phát triển nhờ các tiến bộ công nghệ và luôn thử nghiệm các môn khoa học bí ẩn như ESP, theo dõi từ xa, tước đoạt giác quan và các trạng thái tâm thần kích thích mạnh bằng dược lý. Tất cả đều chỉ là một, đó là khai thác tiềm năng trong trí não con người. Một trong những điều tôi học được từ anh Peter là: Khoa học và chủ nghĩa thần bí có liên hệ rất mật thiết chỉ phân biệt với nhau qua cách tiếp cận. Mục tiêu của chúng giống nhau… nhưng phương pháp thì khác hẳn.- Nghe Peter nói, lĩnh vực nghiên cứu của cô là một dạng khoa học thần bí hiện đại, đúng không? - Galloway hỏi.Lý trí học. - Katherine gật đầu đáp - Và nó đang chứng minh rằng con người có những sức mạnh mà chính bản thân họ không thể hình dung nổi - Cô ra dấu về phía một ô cửa sổ lắp kính màu mô tả hình ảnh “Jesus toả sáng, quen thuộc, tức là hình Đức Chúa với hào quang toả ra từ đầu và tay - Trên thực tế, con chỉ dùng thiết bị tích điện kép (CDD) hạ nhiệt để chụp bàn tay một thầy lang chữa bệnh bằng đức tin. Kết quả thu được là những dòng năng lượng tuôn trào qua các đầu ngón tay trong khi ông ta làm việc… y như hình ảnh Jesus trong ô cửa sổ lắp kính màu của cha kia.Một trí óc được đào tạo rất bài bản, Galloway nghĩ thầm, cố giấu một nụ cười. Cô có biết Jesus chữa bệnh như thế nào không?- Con nhận ra rằng, - Katherine tiếp - y học hiện đại cười nhạo các thầy lang và thầy pháp, nhưng con đã tận mắt chứng kiến công việc của họ. Các máy ảnh CCD ghi lại rất rõ cảnh thầy lang truyền một trường năng lượng lớn từ các đầu ngón tay sang bệnh nhân và làm thay đổi cấu trúc tế bào của họ, đúng như thế. Nếu đó không phải là sức mạnh thần thánh thì thật không biết gọi là gì.Đức cha Galloway phì cười. Katherine có niềm đam mê nhiệt thành y hệt anh trai cô.- Peter từng so sánh Lý trí học với những người tiên phong bị chế giễu vì kiên trì với ý tưởng dị giáo về một trái đất hình cầu xưa kia.Chỉ qua một đêm, những người mở đường ấy từ hạng ngu ngốc trở thành các anh hùng, khám phá ra nhiều thế giới mới mẻ và nới rộng đường chân trời cho cả nhân loại trên hành tinh. Peter nghĩ rằng cô cũng sẽ làm được như thế. Anh ấy rất kỳ vọng vào công việc của cô. Suy cho cùng, mọi thay đổi triết học lớn trong lịch sử đều bắt đầu từ một ý tưởng mạnh dạn.Dĩ nhiên, Galloway biết rằng người ta không nhất thiết phải vào phòng thí nghiệm để tận mắt trông thấy bằng chứng về ý tưởng mới mẻ táo bạo hay nghe lời đề xuất về tiềm năng chưa khai phá của con người. Chính Đại Giáo đường này đã từng tổ chức nhiều buổi cầu nguyện chữa bệnh cho người ốm và liên tục chứng kiến những kết quả thực sự kỳ diệu, những biến đổi vật lý đáng được ghi chép về mặt y học. Vấn đề không nằm ở chỗ liệu có phải Chúa đã ban cho con người sức mạnh to lớn hay không… mà ở chỗ chúng ta làm cách nào giải phóng được sức mạnh ấy.Đức Cha kính cẩn vòng hai bàn tay quanh Kim tự tháp Tam điểm và nói khẽ.- Các bạn, tôi không biết chính xác ngọn tháp chỉ tới đâu… nhưng tôi biết rõ điều này. Có một kho báu tinh thần rất lớn được cất giấu đâu đó ngoài kia… một kho báu đã kiên nhẫn chờ đợi trong bóng tối hàng bao thế hệ. Tôi tin rằng nó là tác nhân có sức mạnh biến đổi cả thế giới - ông chạm tay vào phần đỉnh chóp vàng - Kim tự tháp hoàn chỉnh đã được ráp lại… thời khắc lịch sử sắp đến. Cổ nhân đã tiên đoán về khả năng của một giai đoạn khai sáng có tính bước ngoặt… Tại sao lại không nhỉ?- Thưa cha, - Langdon lên tiếng, giọng khiêu khích - tất cả chúng ta đều đã quá quen với sự mặc khải của Thánh John và ý nghĩa thật sự của sách Khải huyền, nhưng lời tiên tri trong Kinh thánh thì hầu như không…- Ôi lạy Chúa, sách Khải huyền là một mớ rác rưởi - đức cha đáp - Chịu chẳng biết đọc nó thế nào. Tôi đang đề cập đến những trí tuệ sáng láng diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ minh bạch, chẳng hạn các dự đoán của Thánh Augustine, Tử tước Francis Bacon, Newton, Einstein, và còn nhiều nhiều nữa, tất cả đều tiên đoán về một thời điểm khai sáng mang tính biến đổi. Ngay cả Jesus cũng nói “Chẳng có gì giấu giếm được mãi, và cũng chẳng có bí mật nào lại không lộ ra ánh sáng”.- Đó là lời tiên đoán rất an toàn, - Langdon nói - Kiến thức phát triển theo cấp số nhân. Chúng ta càng biết nhiều thì khả năng học hỏi càng lớn, và tốc độ mở mang cơ sở tri thức càng cao hơn.- Đúng vậy, - Katherine thêm vào - Có thể thấy rõ điều đó trong khoa học. Mỗi công nghệ mới sáng chế đều trở thành phương tiện để phát minh ra những công nghệ mới khác… và nó cứ thế mà phát triển. Đó là lý do tại sao năm năm qua khoa học lại tiến nhanh hơn so với cả năm ngàn năm trước đó. Một sự phát triển ghê gớm. Ví von theo kiểu toán học là cùng với thời gian, đường cong hàm mũ mô tả quá trình gần như trở thành đường thẳng đứng, và sự phát triển diễn ra nhanh kinh khủng.Căn phòng chìm vào im lặng. Cha Galloway cảm thấy hai vị khách của mình vẫn chưa suy luận được bằng cách nào kim tự tháp sẽ dẫn họ tới những phát hiện mới. Đó là lý do vì sao số phận đưa các vi đến với tôi, ông nghĩ thầm. Tôi phải đảm nhân vai trò này.Đã nhiều năm, Đức cha Colin Galloway, cùng với các huynh đệ Tam điểm của mình, giữ vai trò người gác cổng. Còn giờ đây mọi thứ đang thay đổi.Ta không còn là người gác cổng nữa… Ta là người chỉ đường.- Giáo sư Langdon? - Galloway lên tiếng, vươn tay qua bàn - Hãy cầm lấy tay tôi.Robert Langdon do dự ngó bàn tay Galloway chìa ra trước mặt mình.- Chúng ta sắp cầu nguyện ư?Rất nhã nhặn, anh đặt bàn tay phải của mình vào bàn tay nhăn nhúm của cha chánh xứ. Ông già nắm lấy nhưng không cầu nguyện. Thay vào đó, ông lần tìm ngón trỏ của Langdon và đưa nó vào lòng hộp đá từng cất giữ chóp vàng.- Mắt anh đã đánh lừa anh. - cha chánh xứ nói - Phải chi nhìn bằng đầu ngón tay như tôi thì anh sẽ nhận ra rằng cái hộp này còn điều đáng lưu tâm.Langdon nghiêm túc đưa đầu ngón tay miết xung quanh lòng hộp, nhưng anh chẳng cảm thấy gì. Bên trong hoàn toàn nhẵn nhụi.- Cứ tìm kỹ đi. - Galloway nhắc.Cuối cùng, đầu ngón tay của Langdon cũng nhận ra một vòng tròn nhỏ xíu nhô lên, một chấm cực nhỏ ở chính giữa đáy hộp. Anh bỏ tay ra và săm soi kỹ càng bên trong. Anh không thể nhìn thấy chấm tròn nọ bằng mắt thường. Nó là gì nhỉ?- Anh có nhận ra biểu tượng đó không? - Galloway hỏi.- Biểu tượng ư? - Langdon nói - Con chẳng nhìn thấy gì cả.- Ấn mạnh nó xem nào.Langdon làm đúng như yêu cầu, ấn đầu ngón tay xuống cái chấm.Ông ấy mong đợi chuyện gì xảy ra đây.- Nhấn ngón tay của anh xuống - cha chánh xứ nhắc - ấn mạnh.Langdon liếc nhìn Katherine, cô bối rối đưa tay vén một lọn tóc ra sau tai.Vài giây trôi qua, cha chánh xứ gật đầu.- Được rồi, bỏ tay ra đi. Quá trình giả kim đã hoàn tất.Giả kim ư? Robert Langdon buông tay khỏi cái hộp đá và ngơ ngác ngồi im. Chẳng có gì thay đổi. Cái hộp vẫn nằm nguyên trên bàn.- Có gì đâu, - Langdon nói.- Hãy kiểm tra đầu ngón tay anh xem, - cha chánh xứ bảo - Anh sẽ thấy một sự biến đổi.Langdon nhìn ngón tay mình, sự biến đổi duy nhất là trên da anh xuất hiện vết lõm do một cục bướu tròn tạo ra: một vòng tròn nhỏ xíu với một chấm ở chính giữa.ẢNH- Bây giờ anh đã nhận ra biểu tượng chưa? - Galloway hỏi.Langdon đã nhận ra, nhưng việc ông già cảm nhận rõ đến từng chi tiết mới thực sự khiến anh ấn tượng. Nhìn bằng đầu ngón tay quả là một kỹ năng cao siêu.- Đó là thuật giả kim, - Katherine nói, xích ghế của mình vào gần hơn và nhìn kỹ ngón tay Langdon - Đây là biểu tượng cổ của vàng.- Đúng vậy - Galloway mỉm cười và vỗ lên cái hộp - Chúc mừng Giáo sư. Anh đã giành được thứ mà mọi nhà giả kim trong lịch sử đều mong ước. Từ một chất liệu vô giá trị, anh đã tạo ra vàng.Langdon cau mày thờ ơ. Mẹo vặt của Galloway xem ra chẳng mấy hữu ích.- Một ý tưởng rất thú vị, thưa cha, nhưng con e rằng biểu tượng vòng tròn với một chấm chính giữa này có tới hàng chục ý nghĩa. Nó được gọi là bàn huyền điểm, và là một trong những biểu tượng được sử dụng rộng rãi nhất trong lịch sử.- Anh đang nói gì thế? - cha chánh xứ hỏi, giọng đầy vẻ hoài nghi.Langdon sửng sốt vì một hội viên Tam điểm lại không thông thuộc ý nghĩa tinh thần của biểu tượng này.- Thưa cha, bàn huyền điểm có vô số nghĩa. Ở Ai Cập cổ đại, nó đại diện cho thần mặt trời Ra, thiên văn học hiện đại vẫn sử dụng nó như biểu tượng của vầng thái dương. Trong triết học phương Đông, bàn huyền điểm thể hiện sự thấu suốt về mặt tinh thần của Huệ nhãn, của hoa hồng thiêng liêng, và là biểu tượng của sự khai trí. Các tín đồ Kabbalah dùng nó để chỉ Kether (Sephiroth(94) tối cao và “điều sâu kín nhất trong tất cả những điều sâu kín”). Chủ nghĩa thần bí sơ khai gọi bàn huyền điểm là Thần nhãn, nó cũng là nguồn gốc của Thấu nhãn trên dấu Quốc ấn. Những người theo trường phái Pythagoras sử dụng bàn huyền điểm làm hình ảnh đại diện cho Monad - Chân lý Thần thánh, Kiến thức Nguyên thuỷ, sự tương thông giữa trí tuệ và tâm hồn, và…- Thôi đủ rồi! - Galloway bật cười - Cảm ơn Giáo sư. Anh nói rất đúng.Langdon nhận ra đức cha vừa đùa cợt mình. Ông ấy biết rõ tất cả.- Bàn huyền điểm, - Galloway nói, vẫn tủm tỉm cười - là biểu tượng của Bí ẩn cổ xưa. Vì lý do đó, tôi cho rằng không phải ngẫu nhiên mà nó hiện diện trong hộp. Theo truyền thuyết, bí mật của tấm bản đồ này được cất giấu ở những chi tiết nhỏ nhất.- Hay lắm, - Katherine lên tiếng - nhưng ngay cả khi người ta cố ý bố trí biểu tượng này ở đây thì nó cũng chẳng đưa chúng ta đến gần việc giải mã hơn chút nào, phải không ạ?- Lúc nãy cô nói dấu sáp niêm phong mà cô bóc có in hình chiếc nhẫn của Peter?- Vâng.- Và anh thì mang theo chiếc nhẫn đó?- Vâng - Langdon thọc tay vào túi, anh móc chiếc nhẫn ra khỏi túi nhựa rồi đặt lên bàn trước mặt cha chánh xứ.Galloway nhặt chiếc nhẫn và bắt đầu sờ các bề mặt của nó.- Chiếc nhẫn độc đáo này được tạo ra cùng thời Kim tự tháp Tam điểm. Theo truyền thống thì hội viên nào chịu trách nhiệm bảo vệ kim tự tháp sẽ đeo nhẫn. Tối nay, khi phát hiện bàn huyền điểm nhỏ xíu ở đáy hộp đá, tôi đã nhận ra rằng chiếc nhẫn là một phần của biểu hình.- Thật thế ư?- Tôi đoán chắc như vậy. Peter là người bạn thân nhất của tôi, anh ấy đã đeo chiếc nhẫn này nhiều năm rồi. Tôi rất quen thuộc với nó - ông già trả chiếc nhẫn lại cho Langdon - Anh tự xem đi.Langdon nhận lấy chiếc nhẫn và cẩn thận kiểm tra. Anh rà các ngón tay lên con phượng hoàng hai đầu, con số 33, dòng chữ ORDO AB CHAO, và cả dòng chữ Tất cả được tiết lộ ở cấp 33… vẫn không nhận thấy chi tiết nào hữu dụng. Sau đó, khi lần xuống xung quanh vành ngoài đai nhẫn, Langdon đột ngột dừng lại. Anh giật mình lật chiếc nhẫn lên và chăm chú quan sát đáy đai nhẫn.Galloway hỏi:- Anh tìm thấy rồi phải không?- Con nghĩ là như vậy! - Langdon đáp.Katherine xích ghế lại gần hơn.- Gì vậy?- Dấu hiệu cấp độ trên đai nhẫn, - Langdon đáp, chìa cho cô xem - Nó nhỏ đến mức ta không phát hiện nổi bằng mắt thường, nhưng khi sờ bằng tay, ta có thể khẳng định là nó ăn lõm xuống, giống một dấu khắc tròn nhỏ xíu.Dấu hiệu cấp độ bố trí ở chính giữa phần đáy đai nhẫn… và phải thừa nhận rằng trông đúng bằng kích cỡ của cái chấm nổi ở đáy hộp.- Cùng cỡ thì phải? - Katherine nhích lại gần hơn nữa, miệng kêu lên đầy phấn khích.- Có một cách kiểm chứng - Langdon cầm chiếc nhẫn và đưa vào trong hộp, lựa cho hai hình tròn trùng khít nhau. Khi anh ấn xuống, vòng tròn nổi trong hộp khớp đúng vào phần lõm của chiếc nhẫn. Có một tiếng tách mơ hồ nhưng đanh gọn.Tất cả cùng nhổm dậy.Langdon chờ đợi, nhưng không có gì khác lạ.- Sao thế?! - cha chánh xứ hỏi.- Chẳng có gì cả, - Katherine đáp - Cái nhẫn khớp đúng chỗ… nhưng không có gì xảy ra hết.- Không có sự biến đổi lớn lao nào ư? - Galloway lộ vẻ bối rối.Chưa xong, Langdon ngẫm nghĩ, đăm đăm nhìn xuống phù hiệu phượng hoàng hai đầu và con số 33 đúc nổi của chiếc nhẫn. Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33. Anh suy nghĩ rất lung, về Pythagoras, về hình học thiêng liêng, về các góc, rồi băn khoăn tự hỏi liệu cấp độ có mang ý nghĩa toán học nào không.Nhịp tim dần đập rộn lên, Langdon đưa tay cầm chiếc nhẫn đang dính chặt lấy đáy hộp. Sau đó anh chậm rãi xoay nó sang phải. Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33.Anh xoay chiếc nhẫn 10 độ… 20 độ… 30 độ…Những gì xảy đến tiếp theo, Langdon chưa bao giờ chứng kiến cả.Chú thích:(94) Cây Sephiroth bao gồm 10 vòng tròn, đại diện cho các con số từ 1 đến 10 và được liên kết với nhau bằng 22 kênh - 22 chữ cái Do Thái. Mười số và 22 chữ cái tạo ra con số huyền bí 32, biểu hiện cho 32 con đường đi tới Trí tuệ. Số và chữ được xem là chìa khoá mở kho tàng tri thức, vì bằng cách sắp xếp chúng theo một hệ thống bỉ mật, những điều bí ẩn của tạo hoá sẽ được hé lộ - ND
Chương trước Chương tiếp
Loading...