Đại Phách Quan

Chương 25



*

Đàn Khinh Trần chăm chú nhìn Hạ Mẫn Chi, trong mắt tràn đầy ngưỡng mộ khắc cốt cùng tán thưởng sâu xa.

Hạ Mẫn Chi né tránh mục quang của hắn, mỉm cười: “Tốt lắm, bắt lấy!”

——

Nhất thời phạm nhân bị giải lên, quỳ xuống công đường.

Hạ Mẫn Chi cũng không ngó ngàng tới Tề Vân Vĩnh kia, mỉm cười chào hỏi: “Duệ Vương gia.”

Đàn Khinh Trần cũng cười nói: “Hạ đại nhân.”

Hai người như thể đang hàn huyên với nhau, đám người văn thư nha dịch đứng hai bên không khỏi thầm nghĩ, chưa bao giờ thấy một hình quan ôn hòa phóng khoáng thế này, cũng chưa từng gặp một phạm nhân bình tĩnh ung dung như vậy.

Hạ Mẫn Chi quan tâm nói: “Khinh Trần huynh hai chân tựa hồ có hơi bất tiện, Lưu tẩu nhà ta cũng hiểu biết chút y thuật, lát nữa để tẩu ấy giúp huynh xem sao.”

Đàn Khinh Trần cảm kích nói: “Vậy, phải đa tạ Mẫn Chi hiền đệ trước.”

Còn xưng huynh gọi đệ!

Người khác ngơ ngác, Tề Vân Vĩnh đã run rẩy như bị cảm mạo.

Hạ Mẫn Chi khẽ cúi đầu, ánh mắt ẩn bên dưới hàng my dày rậm liếc nhìn Tề Vân Vĩnh, biết đã đến lúc, lớn tiếng hỏi: “Dưới công đường chính là Thừa Thiên hộ pháp Thanh Thần giáo Tề Vân Vĩnh?”

Tề Vân Vĩnh tuy từng đọc qua vài quyển sách, nhưng nói sao cũng chỉ là kẻ quê mùa, nhất thời hồ đồ nổi lòng tham gia nhập Thanh Thần giáo, đã sớm hối hận khôn nguôi, Thái tử hứa hẹn chỉ cần hắn vu khống Đàn Khinh Trần, là có thể giữ được tánh mạng, nhưng trước mắt vị Đại Lý Tự thừa đến từ Tĩnh Phong này, dường như là hảo hữu tri giao của Đàn Khinh Trần, lại thêm bị hắn lớn tiếng hỏi, lập tức mất hết chủ ý, run giọng nói: “Phải… là ta.”

Hạ Mẫn Chi cười lạnh: “Trong khẩu cung ngươi nói, Đàn Khinh Trần là thủ lĩnh Thanh Thần giáo?”

“Phải.”

“Hắn lập giáo khi nào?”

“Đầu mùa hạ năm trước, sau trận lũ lụt.”

“Lý do lập giáo?”

“Vì… để hành thích Thái tử.”

“Giáo lý Thanh Thần giáo là gì?”

“Thủy quái giáng họa, Thanh Thần cứu thế.”

“Thái tử là thủy quái?”

“Không… không dám, không phải.”

“Thái tử không phải thủy quái, vậy tại sao phải hành thích Thái tử?”

“…”

Một phen hỏi nhanh đáp nhanh như tràng pháo, Tề Vân Vĩnh đã mồ hôi đầy người.

Hạ Mẫn Chi lật khẩu cung, ném sang một bên, thuận miệng hỏi: “Thanh Thần giáo bắt đầu hoạt động từ khi nào?”

“Mồng một tháng chạp.”

“Khởi nghiệp ở vùng nào?”

“Trấn Dũng Tuyền ở Thành Châu.”

“Lý do khởi nghiệp?”

“Hành thích Thái tử.”

“Thật sao?”

“Tiểu nhân… tiểu nhân không dám nói dối.”

“Vả miệng hai mươi cái!” Hạ Mẫn Chi đập bàn cả giận nói: “Mồng một tháng chạp Thái tử đang ở Lâm Châu, các ngươi khởi nghiệp ở Thành Châu cách cả một dòng Kim Giang, còn dám nói là muốn hành thích Thái tử? Toàn hồ ngôn loạn ngữ!”

Hai nha dịch Lâm Châu phủ đứng ra dùng bàn tay gỗ tát vào mồm Tề Vân Vĩnh, mới tát hai cái, tự tốt mà Hạ Mẫn Chi dẫn theo từ Đại Lý Tự liền cực kỳ bất mãn, đẩy hai người kia ra, lấy “bì chưởng” mang bên hông đặc chế từ da thuộc chuyên dùng để vả miệng, tận tâm tận lực tát từng cái từng cái.

Cứ thế tát cho đến khi khóe miệng Tề Vân Vĩnh máu văng tung tóe, khóc cha gọi mẹ.

Bị đánh xong, toàn thân đều nhũn ra, hàm hàm hồ hồ cầu xin: “Đại nhân tha mạng!”

Hạ Mẫn Chi vẫn bất động thanh sắc, tiếp tục hỏi: “Thanh Thần giáo lấy tên từ đâu?”

Thái tử nháy mắt ra hiệu, văn thư Ân Tinh cười nói: “Hạ đại nhân, trong khẩu cung của phạm nhân đều đã ghi chép tường tận, đại nhân không ngại cứ xem khẩu cung trước đã.”

Hạ Mẫn Chi lười biếng dựa vào lưng ghế, đảo mắt nhìn hắn, nhàn nhạt nói: “Ngươi là cái thá gì? Bổn quan thẩm vấn cần ngươi tới lải nhải?”

Ân Tinh tím mặt, lập tức ngậm miệng.

Hạ Mẫn Chi hỏi: “Thanh Thần giáo lấy tên từ đâu?”

Tề Vân Vĩnh miễn cưỡng đáp: “Lấy từ… húy danh của Duệ Vương gia… hai chữ Khinh Trần.” (Thanh Thần và Khinh Trần phát âm giống nhau, đều đọc là qing chen)

“Tại sao Thanh Thần giáo lấy màu tím làm cờ hiệu?”

“Là… là ý của Duệ vương gia, màu tím lấn át sắc đỏ, hắn muốn mưu sát Thái tử, đoạt quyền soán vị.”

Hạ Mẫn Chi không hề dừng lại, gắt gao hỏi dồn: “Những lời này là ai dạy ngươi nói?”

Tề Vân Vĩnh đã sớm bị dọa đến hồn vía lên mây, bị đánh đến tâm can suýt nứt toát, lại bị tra hỏi đến mơ mơ hồ hồ, buộc miệng thốt ra: “Ân phu tử.”

Cả điện yên tĩnh.

Đàn Khinh Trần chăm chú nhìn Hạ Mẫn Chi, trong mắt tràn đầy ngưỡng mộ khắc cốt cùng tán thưởng sâu xa.

Hạ Mẫn Chi né tránh mục quang của hắn, mỉm cười: “Tốt lắm, bắt lấy!”

Ân Tinh quỳ xuống công đường, tuy sắc mặt trắng bệch, vẫn nỗ lực tự trấn định.

Hạ Mẫn Chi cười nói: “Ngay cả tên giáo lẫn màu cờ đều lấy làm chứng cứ phạm tội, Ân phu tử quả nhiên giỏi múa bút, văn hay ý đẹp.”

Ân Tinh ứng đáp lưu loát: “Đại nhân minh giám, tên và màu cờ của Thanh Thần giáo, ty chức chưa từng bịa đặt.”

Hạ Mẫn Chi khẽ rũ my, cười lạnh: “Chính hộ pháp của Thanh Thần giáo còn không biết hai chữ Thanh Thần đến từ đâu, trái lại phải nhờ ngươi dạy hắn nói, đúng là thú vị.”

“Ân phu tử tên chỉ có một chữ Tinh. Thanh điểu ân cần vi tham khán, tạc dạ tinh thần tạc dạ phong, tên rất hay, rất ý vị… Chỉ là nếu lấy tính danh để ghép tội, phu tử cũng trốn không thoát rồi?”

Ân Tinh trán đã toát mồ hôi, trong hai câu thơ này có tên của mình, nhưng cũng có cả hai chữ thanh thần, lập tức á khẩu nghẹn họng.

“Trong triều quan tam phẩm đều mặc triều phục màu tím, phương trượng đại sư của Hộ quốc tự cũng là áo cà sa tím túi bạc, ý của Ân phu tử ám chỉ Đại Lý Tự khanh Hàn đại nhân muốn mưu phản không nói, ngay cả đại hòa thượng cũng một lòng muốn soán vị sao?”

Ân Tinh mồ hôi ra như tắm: “Ty chức không dám.”

Hạ Mẫn Chi thản nhiên nói: “Lá gan ngươi rất to, có gì không dám.”

Làm như lơ đãng, hỏi: “Cái bình sứ thân xanh nhạt miệng tím sậm kia, là làm từ lò Quan Diêu đúng không?”

Ân Tinh phản ứng không kịp, một chữ “Phải” đã trôi tới đầu lưỡi, lại khăng khăng níu kéo, thế là thành: “Phải… Không phải, ty chức không biết, không hiểu ý của đại nhân.”

Nhưng trái lại đã phơi bày một mấu chốt đẹp mắt.

Hạ Mẫn Chi cũng không hỏi nữa, hạ lệnh lôi Ân Tinh và Tề Vân Vĩnh xuống, phân phó giải Yên Dạ Lai lên.

Một bên mỉm cười nói với Mạc Thái Vi: “Lời khai của Tề Vân Vĩnh sơ hở chồng chất, Lâm Châu phủ nên phong lại giao cho Đại Lý Tự mới đúng, Mạc đại nhân quả thật đã có phần quá vội vàng.”

Mạc Thái Vi chỉ cảm thấy nụ cười của hắn sao mà đáng sợ, trong lòng rét run, không đáp lời, trộm liếc phía Thái tử.

Thái tử lạnh lùng nói: “Ta thấy Hạ đại nhân có lòng riêng tư rồi. Chứng cớ vô cùng xác thực, chẳng lẽ Hạ đại nhân đây là muốn lật lại vụ án? Người khác không nói, lẽ nào vương phi và thị thiếp của Thập tứ thúc cũng muốn mưu hại hắn?”

Ngón tay như ngọc mài của Hạ Mẫn Chi hờ hững đặt ngang môi, cười đến mỉa mai: “Thái tử điện hạ gấp cái gì?” Hạ giọng: “Nếu ta nói người chết cũng có thể lên tiếng, điện hạ có tin không?”

Đại điện vốn đã chìm trong bầu không khí âm trầm, Thái tử chợt cảm thấy lạnh xương sống, tóc gáy đều dựng cả lên, quát lớn: “Hạ Mẫn Chi! Ngươi dám giả thần giả quỷ?”

Hạ Mẫn Chi cười âm u, đôi mắt màu hổ phách nhìn chằm chằm Thái tử, bán trong suốt, lạnh thấu xương tủy.

Thái tử hận không thể tự tay bóp chết hắn, đối với bản tính cường liệt trời sinh này của hắn quả thật ghét cay ghét đắng, còn xen lẫn cả sợ hãi, tức giận đến hai mắt đỏ ngầu.

Lại thấy Niếp Thập Tam đích thân giải Yên Dạ Lai lên điện.

Hạ Mẫn Chi nhìn về phía Niếp Thập Tam, Niếp Thập Tam khẽ gật đầu.

Tư thái quỳ xuống của Yên Dạ Lai như một đóa hoa rơi cuối hạ, đôi mắt như xuân thủy đóng băng, không giấu được nét đa tình uyển luyến, si mê dán vào Đàn Khinh Trần.

Hạ Mẫn Chi gọi: “Yên Dạ Lai.”

“Yên Dạ Lai khấu kiến đại nhân.”

“Đêm mười ba tháng chạp, có phải ngươi đến hành thích Thái tử?”

“Phải.”

“Ai sai khiến?”

Yên Dạ Lai không chút do dự đáp: “Duệ vương gia.”

Đàn Khinh Trần cười khổ.

Quả nhiên nằm trong dự liệu, Hạ Mẫn Chi thản nhiên hỏi: “Lúc Đàn Khinh Trần nạp ngươi làm thiếp, ngươi có tự nguyện không? Ngươi có biết hắn là thủ lĩnh Thanh Thần giáo?”

Yên Dạ Lai ứng đáp rõ ràng: “Tiểu nữ tử nguyên là người giang hồ mãi võ kiếm sống, Duệ vương gia giữ ta lại trong phủ, lại gạt lấy thân thể của ta, tiểu nữ tử rơi vào đường cùng, phải làm thiếp cho hắn, vốn không biết hắn là thủ lĩnh Thanh Thần giáo.”

“Nếu ngươi đã không tự nguyện, lại không biết sự vụ trong Thanh Thần giáo, tại sao còn nghe lệnh hắn hành thích Thái tử?”

“Tiểu nữ tử mệnh bạc như bèo trôi, đã thất thân với hắn, thành thị thiếp của hắn, tự nhiên nghe theo phu quân, vương gia cho ta xem bức họa vẽ Thái tử lệnh ta hành thích, tiểu nữ tử không hề biết người mình phải giết là Thái tử. Xin đại nhân tha cho tiểu nữ tử một mạng…”

Thanh âm giòn mà nhu, khiến người sinh lòng thương tiếc.

Hạ Mẫn Chi hòa nhã hỏi: “Những gì ngươi nói đều là sự thật?”

Yên Dạ Lai điềm đạm đáng thương đáp: “Thật không dám dối gạt đại nhân.”

Hạ Mẫn Chi tỏ vẻ mệt mỏi, ôm trán, thanh âm bình tĩnh không gợn sóng: “Ngươi cũng biết thủ cung sa (1) đúng không?”

Yên Dạ Lai sắc mặt đại biến, nhìn về phía Niếp Thập Tam.

Niếp Thập Tam trên đường mượn cớ thử công phu của nàng, bắt lấy cổ tay thuận theo Mạch Môn vạch đến Kiên Tỉnh, xắn cả tay áo nàng lên, đã tường tận quan sát cánh tay phải của nàng.

Chợt nghe thấy thanh âm thoáng lộ chút suy yếu của Hạ Mẫn Chi vang lên: “Thủ cung, còn gọi là bích hổ. Lấy bảy con thạch sùng tháng bảy, hong khô, giã nhuyễn, hòa với nước giếng, trộn thêm đan sa bôi lên người nữ tử, không phai thì không dâm, hễ phai là có gian.”

“Yên Dạ Lai, vừa rồi Niếp đại nhân đã nhìn rõ trên cánh tay phải của ngươi vẫn còn một điểm thủ cung sa, ngươi lại khai Duệ vương gia cưỡng gian ngươi, còn nói thất thân với hắn nên chỉ có thể nghe lệnh hắn, toàn là nói bậy!”

Nhất thời nha dịch tiến lên kéo tay áo của Yên Dạ Lai, quả nhiên trên khuỷu tay trắng tuyết, có một chấm màu son rõ ràng.

Hạ Mẫn Chi thở dài: “Bổn quan khuyên ngươi nên thành thật cung khai, rốt cuộc là ai lệnh cho ngươi hành thích Thái tử?”

Thân thể Yên Dạ Lai run rẩy như lá rơi trong gió, không phải sợ bị bắt giam, mà là hổ thẹn khó kham không nói nên lời.

Thái tử trong lòng phẫn hận, án mưu nghịch này, mình cùng Điệp lâu, Lâm Châu phủ mưu định hành động kỹ lưỡng đến tự cho là thiên y vô phùng, không ngờ chỉ sau một buổi thẩm tra của Hạ Mẫn Chi, lại thành sơ hở chồng chất, nhìn thấy Hạ Mẫn Chi lật đến trang khẩu cung của Đàn Khinh Trần, khóe môi còn mang tiếu ý gần như giễu cợt, lập tức bàng hoàng hết cách.

Yên Dạ Lai đang định mở miệng, chợt nghe có tiếng vó ngựa vang lên, một con ngựa phóng tới như tia chớp, xông thẳng đến trước điện.

Kỵ giả xuống ngựa vào điện, một thân đoản đả (2) hồng sắc, chính là đặc sứ từ Tĩnh Phong tám trăm dặm tới gấp, mọi người quỳ xuống dưới điện, đặc sứ mở thánh chỉ ra, dõng dạc đọc: “Tuyên triệu hữu thừa Đại Lý Tự Hạ Mẫn Chi lập tức về kinh. Án mưu nghịch của Duệ vương y theo Lâm Châu sơ thẩm làm chuẩn, Đại Lý Tự mau chóng kết án, báo cùng lục bộ, công bố thiên hạ. Khâm thử.”

Hạ Mẫn Chi bệnh nặng vừa khỏi liền tiếp quản đại án mưu nghịch, lặn lội đến Lâm Châu, mấy ngày qua một đường phong sương, đã dốc hết sức lực, sợ đêm dài lắm mộng, vừa tới Lâm Châu ngày thứ ba đã vội vàng khai đường thẩm án, nào ngờ vẫn chậm một bước, bị Văn Đế thay đổi chủ ý, không lật lại được vụ án oan này.

Quỳ dưới đất, đầu gối lạnh lẽo, trong lòng phẫn nộ, huyết khí dâng trào, định đứng bật lên, chợt cảm thấy đầu váng mắt hoa, trước mắt tối sầm lại, cả người ngã ra sau.

———

(1) Thủ cung sa: Tớ biết các bạn đã xem phim và đọc truyện đều biết về khái niệm Thủ cung sa này, nhưng vẫn muốn chú thích thêm ^ ^ Trong truyền thuyết Trung Quốc, thủ cung sa là dấu vết chứng tỏ người con gái còn trinh tiết. Thủ cung vốn là một giống tắc kè (thạch sùng, còn có tên là yển đình, tích dịch) được nuôi bằng 7 cân chu sa khiến thân thể có màu đỏ. Giã nát thủ cung bằng chày, được một chất nước đỏ như son, chấm vết son vào cánh tay nữ tử, nếu chưa thất thân thì vết này còn mãi không phai.

(2) Đoản đả: là trang phục kiểu này

Chương trước Chương tiếp
Loading...