Gió Lớn Có Chốn Về

Chương 47: Đến Chim Tước Mùa Xuân Tìm Phối Ngẫu Còn Biết Khoe Cái Đuôi Diễm Lệ



Đèn đuốc sáng rực vây quanh hai người. A Ninh nhìn đám phản quân lăm lăm trường đao trong tay, lắp bắp giải thích: “Ta… ta và ca ca hôm nay vừa vào thành, không quen đường sá cho nên mới lạc đến đây, không phải muốn trộm cắp gì đâu.”

“Vừa vào thành sao không ngồi yên tại chỗ đi, lảng vảng lung tung làm gì?” Kẻ cầm đầu dí sát cây đuốc vào mặt hai người muốn nhìn cho rõ diện mạo, Liễu Huyền An bị nóng phải lùi ra sau mấy bước, che chở A Ninh ra sau lưng mình, giải thích: “Ta và đệ đệ đều là đại phu, trong miếu thổ địa có không ít người bị bệnh, chúng ta nghe nói có thể tới kho lương thực lãnh dược liệu nên muốn ra ngoài tìm xem.”

Y vừa nói vừa thò một tay ra sau lưng khoát khoát ra hiệu cho ba hộ vệ nấp trong chỗ tối đừng tiến lên. A Ninh vẫn nắm chặt ống tay áo công tử nhà mình ra vẻ như bị đao kiếm dọa đến khiếp sợ. Hai người bọn họ một nhỏ gầy một thanh mảnh, nhìn qua có vẻ không gây ra được sóng to gió lớn gì, một tên phản quân liền nói: “Viên tướng quân, nếu là đại phu thật, chi bằng kêu y xem cho lão Miêu một chút, đỡ phải đi mời Trương thái y.”

Người bị hắn xưng là “Viên tướng quân” tên Viên Túng, thân hình cường tráng đúng là rất giống các vị tướng quân trên sân khấu hát kịch. Viên Túng đánh giá trên dưới Liễu Huyền An một phen, hỏi y: “Y thuật thế nào?”

“Tạm được.”

“Theo ta.” Viên Túng xoay người, “Đi xem thương tích cho đại ca ta.”

Ba tên hộ vệ bám theo Liễu Huyền An không xa không gần, mãi đến khi y bước vào tòa “Kim Loan Điện” đèn đuốc sáng trưng mới dừng lại. Phòng ốc bốn phía đều có phản quân tuần tra, có điều đối với thân thủ nhẹ như diều hâu của ba người thì không phải chướng ngại, vẫn xâm nhập dễ như trở bàn tay.

Liễu Huyền An bị đưa vào một chỗ trong đại viện, đúng lúc có người đang tuyên chỉ thăng lão Miêu nằm trên giường từ phó quan lên tướng quân. Viên Túng vội vàng tiến lên chúc mừng, những người ngoài sân lúc này cũng ào ào chia vui, bên trái có một Lý tướng quân, bên phải là một Triệu tướng quân, cả đời này chắc A Ninh chưa từng gặp qua nhiều tướng quân như thế, nhất thời hoa cả mắt không nhớ được ai là ai.

Riêng Liễu Huyền An thì nhớ kỹ, không chỉ nhớ kỹ mà còn thông qua cách nói chuyện của bọn họ, sắp xếp được đại khái vị trí trên dưới. Viên Túng ở bậc cao nhất, địa vị không thấp, Miêu lão tướng quân bởi vì có công cho nên cũng rất quyền uy.

Miêu tướng quân đại danh Miêu Thường Thanh, lấy trong cụm hòa miêu thường thanh thúy*, cũng thật sự là lão nông dân cần cù chăm bón hoa màu hết nửa đời người, chân cẳng quanh năm lao động ngâm nước nên đến mùa này thường phát bệnh. Liễu Huyền An ngồi bên mép giường châm cho ông ta vài cái, thuận miệng hỏi: “Lúc trước đã tìm đại phu xem qua chưa?”

*Hòa miêu thường thanh thúy 禾苗常青翠: mầm mạ xanh tươi

“Không có, cơm ăn còn không đủ no, làm gì thừa tiền mời đại phu.” Miêu Thường Thanh nói, “Mời được cũng chưa chắc chữa được.”

Liễu Huyền An rút châm: “Ngài còn đau không?”

Miêu Thường Thanh thử cử động mấy cái, kinh ngạc nói: “Đúng là không đau nữa.”

Các tướng quân ngồi đầy nhà vẫn chưa ai rời đi, nghe thấy thế vội vàng châu đầu xem. Liễu Huyền An lại nói: “Dùng mấy cây châm này vẫn chưa thể dứt bệnh, chỉ có thể ngăn đau tạm thời, ngài nên nghỉ ngơi nhiều. Ta viết một toa thuốc, Miêu tướng quân dùng trước mười ngày thử xem.”

Miêu Thường Thanh đương nhiên không coi trọng lời đại phu dặn, gấp không chờ nổi muốn xuống giường đi qua đi lại vài vòng, dựng thẳng ngón cái vui vẻ nói: “Thần y, tiểu huynh đệ, ngươi đúng là thần y!”

“Đúng vậy, tay nghề tốt hơn Trương thái y nhiều.” Những người còn lại cũng khen.

“Tiểu huynh đệ, ngươi tên gì, chứng đau cổ tay của ta có thể chữa được không?”

“Ta sắp sinh, không phải, nương tử nhà ta sắp sinh, đại phu cũng xem giúp ta đi?”

Liễu Huyền An và A Ninh bị đám người vây ở giữa, hai lỗ tai lùng bùng: “Được, được hết, mọi người từ từ nói thôi.”

Ngày hôm sau, tòa miếu hoang kia đã được sửa thành y quán tạm thời, trước cửa xếp một hàng người dài chờ xem bệnh.

Mà canh phòng trong thành cũng ngày càng nghiêm mật, bởi vì Diễm quân đã vượt qua Miên Sơn.

Ngày hôm đó Lương Thú tiếp nhận mật báo, Cao Lâm cũng ở bên cạnh xem náo nhiệt, sau khi xem xong phải giơ ngón cái tán thưởng. Có bản lĩnh, không hổ là người Vương gia thích, ta thấy chi bằng tháng sau nên làm hỉ sự luôn, đỡ phải tính chuyện tương lai đi đánh giặc, lần nào chúng ta cũng phải đi Bạch Hạc Sơn Trang đón người.

“Vành mắt ngươi thâm cũng đến hai tấc rồi.” Lương Thú mở hỏa chiết đốt trụi mật báo, “Mở miệng ngậm miệng toàn nói đánh giặc, không thể nghĩ vài quang cảnh yên ổn thái bình thịnh thế được sao?”

“Nghĩ chứ, sao lại không nghĩ được.” Cao Lâm nói, “Ngày tháng yên bình ai mà không muốn sống, chờ đến ngày không phải đánh giặc nữa, ta cũng mua một tiểu viện đối diện vương phủ ở Kinh thành chơi bời thỏa thích vài tháng, thăm thú hết Mộng Đô.”

“Không cho.” Lương Thú xoay người lên ngựa, “Nhìn thấy bản mặt ngươi lại nhớ về những ngày khổ sở biết nay không biết mai ở Tây Bắc, ảnh hưởng tâm tình lắm.”

Cao Lâm cũng cưỡi ngựa đuổi theo, vui vẻ nói: “Được, ta sẽ cách xa một chút, Vương gia cấp cho ta thêm bạc là được. Có bạc, ta đảm bảo sẽ xa thật là xa, tuyệt đối không quấy rầy Vương gia ở cùng Liễu nhị công tử.”

“Ở cùng” trong lời hắn là kiểu tương đối tình thơ ý họa, giống như cảnh tượng tình nhân trên sân khấu cầm tay nhìn nhau vô cùng trong sáng, nhưng hình ảnh Lương Thú nghĩ đến khi nghe những lời này lại sinh động khó nói hơn nhiều. Trong Kiêu Vương phủ có một hậu viện rất lớn đang bỏ hoang, tương lai vừa lúc có thể xây một tòa lầu thủy tạ đình hóng mát tương tự như ở Bạch Hạc Sơn Trang, mùa hè đặt mấy khối băng, mùa đông đốt lò sưởi, bốn phía trồng đầy hoa thơm cỏ lạ, đặt thêm một chiếc trường kỷ vừa to vừa thoải mái, như vậy lúc nào mình về nhà đều có thể lôi ra từ dưới chăn một vị tiên ngủ bốn vạn tám ngàn tuổi mơ mơ màng màng, vừa mềm vừa ấm.

“Khụ!” Cao Lâm ở bên cạnh, “Khụ khụ!”

Lương Thú: “……”

“Vương gia, Vương gia.” Cao Lâm tận tình nhắc nhở: “Mau thu sắc mặt lại.” Đại chiến đang ở trước mắt, nghĩ đến một chút xíu thì được, thật sự không cần hiện rõ hết lên mặt như thế kia, một mình ta nhìn chỉ nổi da gà, nếu để người khác thấy, tám phần sẽ cho là chủ soái trúng tà, khó lòng ổn định quân tâm.

Lương Thú đuổi: “Lăn.”

Cao Lâm rất phối hợp lăn đi điểm binh.

Chim tước mùa xuân tìm phối ngẫu còn biết xòe cái đuôi diễm lệ khoe khoang, Vương gia nhà mình theo đuổi người trong lòng không phải nên xuất chiến đại thắng, nhuần nhuyễn thể hiện bản lĩnh sao?

“Xếp hàng!” Hắn lớn tiếng hạ lệnh.

“Bách chiến bách thắng!” Tiếng hô vang vọng khắp núi đồi.

Thiên quân vạn mã thoạt nhìn đều rất nỗ lực vì đại sự chung thân của Kiêu Vương điện hạ.

Mà Liễu Huyền An ở trong thành cũng trở thành một danh nhân không lớn không nhỏ. Y thuật tinh vi, giọng nói dễ nghe, ngữ điệu mềm mỏng, gặp phải bệnh nhân lỗ mãng cũng không thái độ, ngược lại làm người xung quanh nóng mắt ra tay giúp y duy trì trật tự. Giao tình qua lại thường xuyên, lời nói cũng nhiều lên, đề tài thảo luận mọi người hay nói nhất luôn là chiến tranh, bởi vì nghe nói Diễm Quân đã đánh đến ngoài thành.

Một cô bé đột nhiên khóc òa lên, người mẹ vội kéo con vào trong lòng trấn an mấy tiếng, lại giải thích: “Mấy hôm nay luôn có vài đứa nhỏ nghịch ngợm lấy chuyện Diễm quân giết người ra hù dọa con bé, cho nên vừa nghe liền khóc.”

“Đâu phải chuyện đáng chê cười.” Một người lên tiếng, “Chuyện ở thành Thanh Dương chẳng lẽ các người chưa nghe ai nói?”

Đụng đến ba chữ “thành Thanh Dương”, những người có mặt đều yên lặng, bên tai chỉ còn tiếng trẻ con khóc nức nở và một tiếng thở dài: “Vì sao chúng ta lại rơi vào cảnh này.”

“Ta nghe nói ở những nơi khác, mấy thành trì không gần Bạch Hà,” A Ninh vừa giã thuốc vừa nói mà không ngẩng đầu lên, “Bá tánh ở đó sống rất khá, nếu không phải chúng ta đúng lúc đi thành Thanh Dương thăm người thân, hiện giờ đã sớm được quan phủ dời đến thành Vạn Hòa, nghe nói nơi đó cũng không tồi.”

“Nơi khác sống rất khá, chúng ta ở gần Bạch Hà thì xứng đáng gặp xui xẻo sao?”

“Không có ai xứng đáng xui xẻo.” Liễu Huyền An nói, “Chính vì không muốn gặp xui xẻo cho nên mới tụ tập ở nơi đây, hy vọng có thể sống tiếp qua ngày. Nghe nói tân hoàng của chúng ta rất có bản lĩnh, không biết sang năm đã trị hết lũ lụt chưa.”

“Sang năm, làm gì có chuyện nhanh như vậy.” Trong đám đông có người từng đi học, lớn tiếng phản bác, “Đó là Bạch Hà đấy, nói ít cũng dài đến vạn trượng, không, phải mấy chục vạn trượng, nghe nói đoạn rộng nhất còn rộng ngang biển.”

“Hóa ra Bạch Hà dài như thế.” Liễu Huyền An buông bút, nghi hoặc hỏi, “Muốn khống chế một con sông dài như Bạch Hà cần mất bao lâu?”

Tất cả những người có mặt đều bị hỏi cứng họng, rất nhiều người trong số họ đi quãng đường dài nhất cuộc đời cũng chỉ từ thôn mình đến thành Tam Thủy. Một con sông dài mấy vạn trượng, mấy chục vạn trượng, đó là chiều dài bọn họ không thể tưởng tượng nổi, Liễu Huyền An lại nói: “Chắc năm năm là đủ rồi.”

Năm năm vẫn chưa đủ, không thể đủ. Mọi người tiếp tục tự hỏi tự đáp, mười năm, năm mươi năm, một trăm năm, cuối cùng đưa ra kết luận: có lẽ cần đến một trăm năm, trải qua vài vạn công trình trị thủy nỗ lực ngày đêm, mới có thể thay đổi thành công lộ tuyến của Bạch Hà.

Đáp án này quá nặng nề, bởi vì những người ở đây không ai chờ nổi một trăm năm, mà một ngày chưa trị được Bạch Hà, bá tánh hai bên bờ sông lại thêm một ngày chịu uy hiếp. Mặc dù Hoàng đế có thể đổi, nhưng Hoàng đế không phải thần sông, cuối cùng chẳng phải đâu vẫn vào đó sao?

Lúc này có một đội quan binh tuần tra đúng lúc đi ngang, Liễu Huyền An trông thấy liền gọi bọn họ lại hỏi: “Lý tướng quân, ngài có biết bao giờ Hoàng thượng chuẩn bị trị lũ Bạch Hà không?”

Lý tướng quân bị y hỏi mà không hiểu gì hết: “Ai nói với ngươi Hoàng thượng muốn trị lũ Bạch Hà?”

“Không phải ngay bây giờ, bây giờ chắc chắn không được.” A Ninh bổ sung, “Ca ca ta đang hỏi chuyện tương lai, sau khi Hoàng thượng đánh thẳng lên Vương thành.”

“Đánh tới Vương thành không can hệ gì đến Bạch Hà.” Lý tướng quân nói, “Con sông dài như thế, thần tiên còn khó trị. Chờ chiếm được Vương thành, những người đi theo đều là công thần khai quốc, các ngươi chỉ cần ăn sung mặc sướng, quản Bạch Hà làm gì nữa.”

Hắn nói như vậy, cũng thực lòng nghĩ như vậy. Nhưng chờ hắn đi khuất, Liễu Huyền An lại nói: “Từ thành Tam Thủy đến Vương thành ít nhất còn cách mười mấy thành trì nữa, một đường đánh lên, đội ngũ sẽ càng ngày càng lớn mạnh, Vương thành thật sự có thể chứa nhiều người như vậy ư? Càng đứng nói nơi đó vốn là nhà của mấy trăm vạn người, chúng ta tiến vào, vậy họ biết đi đâu?”

Một câu hỏi khiến toàn bộ miếu càng thêm lặng ngắt như tờ, rất nhiều người đến đây chỉ bởi vì không thể sống nổi ở quê nhà nữa, không có cơm ăn, không thể không tìm đường sống ở nơi khác. Kỳ thật bọn họ không muốn chém giết ai, huống chi trong đội ngũ có không ít người già yếu bệnh tật, muốn nhấc gậy gộc cũng nhấc không lên. Tuy trước mắt ở thành Tam Thủy vẫn được ăn cơm, nhưng tân hoàng đăng cơ sẽ không mãi mãi ở lại đây, hắn sẽ tiếp tục tiến lên phía bắc, mà chỉ cần đại quân nhổ trại chắc chắn sẽ mang luôn lương thực đi cùng.

Đến lúc đó trước mặt mọi người chỉ có hai con đường, hoặc là gia nhập quân đội của Hoàng Vọng Hương, hoặc là lưu lạc đến tòa thành tiếp theo.

A Ninh nói: “Chúng ta sẽ đi theo làm quân y, ca ca, năm người nhà ta đều có thể làm việc cho Hoàng thượng.”

Liễu Huyền An đáp ứng: “Được.”

Y được, nhưng có rất nhiều người ở đây không được, vài phụ nữ trẻ em bật khóc, không biết đêm dài tăm tối này đến bao giờ mới chấm dứt, sau đó đến người già, làm cả ngôi miếu vang tiếng nức nở không thôi.

A Ninh an ủi: “Mọi người đừng vội khóc, chúng ta đi hỏi Hoàng thượng thử xem, nếu trong nhà có nam đinh đánh trận có thể để người nhà ở lại thành Tam Thủy, phân phát một ít lương thực và đất đai không.”

“Trong thành này làm gì còn dư thừa lương thực.” Một thanh niên lên tiếng, “Ban đầu mỗi ngày có thể lãnh ba cái bánh ngô, bây giờ chỉ còn hai cái, trẻ con đến nửa cái còn khó lấy. Mấy hôm trước ta đi giúp đại phu lấy thuốc nên cố ý nhìn sang kho lương thử xem, đã sắp thấy đáy rồi.”

Không còn lương thực nghĩa là nạn đói lại diễn ra, hơn nữa Diễm quân sắp bao vây ngoài thành, tinh thần mọi người đều căng thẳng.

Cũng không ít người nhận ra, trận này dù bên nào thắng bên nào thua, đối với bản thân họ dường như đã mất hết ý nghĩa.

Lương Thú dẫn quân tiến lên, đường chân trời đã loáng thoáng xuất hiện bức tường thành Tam Thủy cắm rất nhiều cờ xí màu vàng của phản quân.

Thiết kỵ huyền giáp của Đại Diễm tỏa hàn quang, trường đao phản chiếu ánh sáng chói mắt. Hoàng Vọng Hương đứng ở nơi cao nhìn thủy triều đen kịt phía xa xa, trên thân mặc bộ long bào không quá vừa người, tay nắm kiếm.

Hắn từng nghe rất nhiều chuyện về Lương Thú, nhất đẳng tướng quân Đại Diễm, tuổi trẻ, tàn bạo, bách chiến bách thắng. Trong những trận chiến ấy hắn chỉ là anh nông dân đứng bên bờ ruộng, bưng chén nghe truyền kỳ ở ngàn dặm ngoài kia.

Mà bây giờ, Hoàng Vọng Hương ho khan hai tiếng, gần đây hắn thật sự rất mệt mỏi, cả tòa thành Tam Thủy chướng khí mù mịt, hôi hám khó ngửi, khác biệt quá xa so với thiên quốc lý tưởng trong đầu, mỗi ngày dường như đều có vô cùng vô tận việc tủn mủn, càng ngày càng đẩy cục diện về hướng không xong.

Dưới thành truyền đến một chuỗi tiếng vang, sau đó Liễu Huyền An bị đưa lên, y tình nguyện nhận việc xem bệnh cho tân đế. Tuy chư vị đại thần cảm thấy trên phương diện chọn lựa thái y, hẳn nên chọn người mình biết rõ lai lịch. Nhưng điều kiện trong thành có hạn, không thể quá kén cá chọn canh.

Đây là lần đầu tiên Liễu Huyền An nhìn thấy Hoàng Vọng Hương, một người đàn ông trung niên da ngăm đen, trên người không toát ra sát khí, dù trong tay nắm kiếm trông cũng chẳng khác nắm cây cuốc là bao. Y cũng đã nhìn thấy quân đội Đại Diễm ở phía xa, vì thế vào thời khắc này không nhịn được hơi giật mình một cái.

“Lớn mật!” Có người lên tiếng răn dạy, “Nhìn thấy Hoàng thượng còn không mau quỳ!”

“Không cần.” Hoàng Vọng Hương nói, “Nghe nói ngươi y thuật cao minh, có thể trị chứng mất ngủ không?”

“Ta có thể trị chứng mất ngủ.” Liễu Huyền An hỏi, “Hoàng thượng ngủ không ngon sao?”

Hoàng Vọng Hương thở dài thật sâu: “Đúng vậy.”

Liễu Huyền An nói: “Để phục vụ cho chẩn bệnh, ta phải hỏi rõ ràng toàn bộ sự việc.”

Hoàng Vọng Hương gật đầu: “Được, ngươi cứ hỏi.”

“Hoàng Thượng mất ngủ là bởi vì Diễm quân đang ở ngoài kia sao?”

“Không hẳn là đúng.” Hoàng Vọng Hương đáp, “Ta đã giao chiến với Diễm quân rất nhiều lần, vẫn ngủ rất ngon.”

“Hay là vì thống soái Diễm quân.”

“Cũng không phải.”

Liễu Huyền An: “Thật hay giả.”

Hoàng Vọng Hương nhìn y đầy khó hiểu.

Liễu Huyền An giải thích: “Ta nghe nói hắn trăm trận trăm thắng.”

Hoàng Vọng Hương lắc đầu: “Ta mất ngủ bắt đầu từ ngày đăng cơ, khi đó vẫn chưa có tin tức của Lương Thú.”

“Nghĩa là Hoàng thượng vui đến không ngủ được?”

“Làm càn!”

Hoàng Vọng Hương còn chưa trả lời, chúng tướng quân đứng bên cạnh đã tức giận mắng to, trong đó Viên tướng quân là lớn tiếng nhất. Mới đăng cơ thôi đã kích động đến không ngủ được, đây là hình tượng mất mặt xấu hổ đến mức nào. Lại có người chỉ vào mũi Liễu Huyền An mắng: “Đã sớm nghe tin ngươi nói linh tinh bậy bạ ngoài miếu hoang làm quân tâm dao động, bây giờ còn dám âm dương quái khí với Hoàng thượng, chỉ sợ là gian tế do Diễm quân phái tới!”

Hai chữ “Gian tế” đặt giữa chiến sự có thể làm hết thảy mọi người căng thẳng thần kinh, lập tức có tiếng rút đao kiếm soàn soạt, người bình thường thấy hẳn phải sợ mềm chân, nhưng Liễu nhị công tử là người xem sống chết thế nào cũng được, cho nên đặc biệt bình tĩnh, bình tĩnh đến mức Hoàng Vọng Hương phải lên tiếng hỏi: “Ngươi không sợ sao?”

Liễu Huyền An đáp: “Ta không phải gian tế, đương nhiên không sợ.”

Hoàng Vọng Hương lại hỏi người vừa ồn ào: “Y làm dao động quân tâm kiểu gì?”

Đối phương đáp: “Trong lúc khám bệnh vẫn luôn xúi giục bá tánh rằng đánh giặc là vô dụng.”

“Ta không có nói đánh giặc vô dụng, nguyên văn lời ta là cổ vũ thanh niên trai tráng gia nhập đại quân một đường đánh lên phương bắc, như vậy tương lai sẽ có cơm ăn.” Liễu Huyền An nói, “Nhưng thanh niên trai tráng phần lớn đều có cha mẹ vợ con, không thể đi theo quân đội, chỉ có thể ở lại thành Tam Thủy, hoặc là lánh nạn ở tòa thành khác. Ngày đó ta hỏi hai vị tướng quân đi ngang qua xem có kế hoạch an trí gì chưa, kết quả bọn họ nói không có gì hết, sau này ai muốn ăn cơm thì phải lập công, nếu không sẽ đói bụng. Nhưng thời điểm chúng ta vào thành rõ ràng đã nghe quan thủ thành nói, chỉ cần gia nhập dưới trước Hoàng thượng là mỗi ngày đều được ăn cơm.”

Hoàng Vọng Hương nhìn về phía đám tướng quân.

Một người trong số bọn họ căng da đầu nói: “Hoàng Thượng, hiện tại trong thành đã không còn bao nhiêu lương thực, mỗi ngày lại cho thêm lưu dân vào thành, chúng ta đã cố hết sức giảm tốc độ, nhưng vẫn… Người chờ cơm thật sự quá nhiều.”

Kỳ thật không cần gã nói, Hoàng Vọng Hương cũng biết điểm này, để mỗi người đều được ăn no là lời do chính hắn nói ra. Ngày trước đó chỉ là một câu khẩu hiệu khởi nghĩa, không cảm thấy có gì không đúng, nhưng từ ngày đăng cơ ở thành Tam Thủy, làm hoàng đế, câu khẩu hiệu này trở thành một đạo thánh chỉ, một nhiệm vụ nhất thiết phải hoàn thành.

Hắn gần như dùng trí tuệ gom góp cả đời để thống trị tòa đô thành mới, ra sức học tập làm sao để trở thành một hoàng đế. Lúc trước hắn cảm thấy chuyện này không quá khó, chỉ cần lòng mang thiên hạ, nhân từ công chính nhất định sẽ được ủng hộ, gây dựng cảnh thái bình thịnh thế. Nhưng hiện thực bày ra trước mắt, thành Tam Thủy dưới đủ loại tân chính do mình đặt ra lại ngày càng loạn lạc, ngày càng mục nát.

Mà lòng căm ghét hắn của cư dân sống trong thành Tam Thủy dường như đã vượt xa lòng căm ghét Diễm quân.

Không một ai hy vọng bầu nhiệt huyết của mình đổi lấy lòng căm ghét tràn đầy, chuyện này không quá giống trong tưởng tượng của hắn trước kia.

Ngay lúc này Liễu Huyền An lại cố tình hỏi: “Vì sao Hoàng thượng phải tận lực làm chậm tốc độ cho lưu dân vào thành? Bọn họ đều ôm hy vọng mới đến đây, không cầu mong gì viển vông, chỉ cần một miếng cơm ăn, chuyện này khó lắm sao?”

Chuyện này khó lắm sao?

Nếu đổi lại là trước kia, Hoàng Vọng Hương cảm thấy không hề khó. Sở dĩ hắn cho rằng mình phải chịu đói là vì quê nhà có tham quan hoành hành, không phát lương thực cho bá tánh, cho nên chỉ cần thanh liêm là có thể giải quyết vấn đề. Nhưng hiện tại, hắn mới phát hiện tham vọng để cho tất cả mọi người đều no bụng là một chuyện thật sự khó khăn.

Về phần Bạch Hà càng là một con mãnh thú miệng rộng, cho dù bản thân hắn có thể giống như trong lời đồn, biết thổi lông hóa hình, biến ra trăm ngàn Hoàng Vọng Hương nhảy xuống sông, cũng khó có thể gây ra ảnh hưởng gì đáng kể.

Cả đời này hắn hoàn toàn không có khả năng trị lũ Bạch Hà.

Hình như cả đời này hắn cũng không có khả năng làm một hoàng đế tốt.

Liễu Huyền An nhìn xuống dưới thành: “Diễm quân sắp tới rồi.”

Y hỏi Hoàng Vọng Hương: “Mấy ngàn bá tánh đang tụ tập ngoài cửa thành, Hoàng thượng định xử lý thế nào?”.
Chương trước Chương tiếp
Loading...