Hát Tiễn Hoa Đào, Chờ Người Quay Lại

Chương 15: Chương 7.2



Tôi không quản được nhiều đến thế, cửa trước chạy không thoát, thế thì đành chạy vào trong vậy. Căn miếu tuy dột nát nhưng tường nhà lại không đổ, mà tường cao như vậy, tôi lại không có cánh nên không cách nào nhảy qua được.

Đại thúc hỏi: “Mấy người đó đến tìm cô nương à?”

Tôi vội trả lời: “Là đến bắt tôi. Đại thúc giúp tôi nhảy qua được bức tường này là xong!”

Đại thúc lại hỏi: “Tại sao bọn họ lại bắt cô?”

Tôi giận dữ, bực tức, tiếng bước chân bên ngoài đã sát gần. Cứ dây dưa mãi, Vương quản gia đã dẫn gia đinh bước vào trong ngôi miếu.

“Ái chà! Tứ tiểu thư! Tiểu thư biết cách để chúng tôi đi tìm quá!” Vương quản gia kêu lên thống thiết, như thể xướng kịch. “Lão gia giận dữ lắm đó. Chúng tôi tìm khắp trong thành mà không thấy tiểu thư, đành phải chạy ra ngoài thành tìm.”

Tôi nhìn ông ta, ông ta tự thấy lý do không xác đáng lắm, lại nói: “Mưa to như thế này, chúng tôi nghĩ có thể tiểu thư ở đây trú mưa. Chà, tóm lại, xin tiểu thư theo chúng tôi về nhà! Lão gia và phu nhân đều rất lo lắng!”

“Tôi không về!” Tôi kiên định như chiến sĩ hồng quân. “Tôi không bao giờ chấp nhận lấy người đó. Hôn sự này ngày nào còn chưa được hủy bỏ thì ngày đó tôi sẽ không về.”

Vương quản gia khổ sở khuyên nhủ tôi: “Tứ tiểu thư, tiểu thư làm thế này chẳng phải là làm khó cho lão gia và phu nhân sao? Tiểu thư lang thang ở bên ngoài thế này cũng làm xấu đi thanh danh của mình nữa.”

Tôi hớn hở nói: “Thế thì chẳng phải càng tốt sao?”

Vương quản gia cuống quá, mồ hôi toát ra như tắm. Dáng người ông ta vốn đã to béo, mồ hôi chảy ra chẳng khác gì mỡ trong người tiết ra. Chắc hẳn ông ta được Tạ thái phó cho phép, khi cần thiết được dùng đến vũ lực, thế nên một câu mệnh lệnh cất lên, mấy bà vú già tráng kiện xông lên, túm chặt lấy tôi.

Tôi giãy giụa mà không thoát nổi, tức giận đến run người, quay sang đại thúc, gào lên: “Đại thúc hãy cứu tôi!”

Đại thúc chắc cũng có mấy phần lương tâm, bước ra nói: “Chẳng hay vì cớ gì mà các hạ lại bắt vị cô nương này?”

Vương quản gia không hề nao núng, nói: “Đây là tứ tiểu thư nhà chúng tôi, trốn chạy hôn nhân, tôi theo lệnh của lão gia chúng tôi đến đưa tiểu thư về nhà.”

Đại thúc biết đây là chuyện gia đình thì do dự, nhìn trái nhìn phải, không biết tiếp theo nên làm gì mới đúng. Bọn họ là người vùng khác đến, sẽ phải đi, tất nhiên tốt nhất là không nên nhiều chuyện.

Tôi chửi thầm, phải cố cắn vào lưỡi để nước mắt trào ra. “Vương quản gia, nhưng vừa nãy tôi phải lấy thân giải độc cho vị công tử kia, có tiếp xúc da thịt rồi. Tôi đã là người của huynh ấy mất rồi!”

“Cái gì!” Đại thúc và Vương quản gia đồng thanh kêu lên. Vương quản gia trông như thể bị trúng gió đến nơi.

Đại thúc hiển nhiên không cam tâm việc tôi không dưng lại chiếm đoạt công tử nhà họ như vậy, nhưng lời tôi nói hợp tình hợp lý, ông ta cũng không biết nên làm thế nào.

Vương quản gia thấy tôi cứng đầu cứng cổ quá, ông ta không xử lý nổi, chỉ còn biện pháp duy nhất là lùa tôi về cho Tạ thái phó ra tay. Thế rồi bất kể tôi kêu la ầm ĩ, ông ta cứ thế gọi người túm lấy tôi ép lên kiệu.

Tôi ai oán gọi: “Lang quân hỡi…”

Vương quản gia nén cơn nổi da gà để kéo rèm lại, giục phu kiệu mau bước đi.

Tôi bị áp tải về tận nhà như thế. Về đến nhà, Tạ thái phó than thở, trách móc tôi rất lâu, người đầy bụng chữ nghĩa như ông ta mà lúc này lại không tìm ra được câu nào thích hợp để nói chuyện với tôi. Tôi tự biết nhất thời không thể trốn nổi, mà ngày tháng còn rộng dài, nên cũng không vội vàng gì, ngồi đối diện với ông ta, cắn hết một đĩa hạt dưa, sau đó phủi mông đi mất.

Chẳng bao lâu sau Vân Hương cũng bị bắt về. Vương quản gia giáo huấn cô ấy vài câu rồi cũng tha cho về tiếp tục hầu hạ tôi.

Tôi an ủi Vân Hương: “Lần này vội quá, lần sau sẽ rút kinh nghiệm.”

Vân Hương lần từ trong túi ra một bao giấy dầu như thể hiến báu vật, nói: “Tiểu thư, đây là ngỗng quay nhà họ Mã nổi tiếng ở thôn ta.”

Tôi sướng rơn. Cái cô nha đầu Vân Hương này ngày càng nhanh trí lại biết hưởng thụ. Ăn ngỗng quay xong, tôi đi tắm, sau đó lên giường đi ngủ. Nửa đêm gió lùa mạnh khiến cánh cửa sổ kêu sầm sập. Vân Hương ngủ không biết gì, tôi đành phải tự dậy đi đóng cửa sổ.

Gió thổi rất mạnh, một hạt bụi bay vào mắt tôi khiến tôi vội vàng đưa tay lên dụi. Cửa sổ chưa đóng kịp lại bật mở ra. Trong bóng tối, một bàn tay bỗng nhiên chìa ra, đóng cửa giúp tôi. Tôi huơ tay sang, bị anh ta túm lấy.

Tôi vội kêu lên: “Bỏ tay ra!”

Tạ Chiêu Anh bỏ ra, hỏi: “Làm sao thế?”

Tôi xòe lòng bàn tay ra, bên trong có một viên thuốc nhỏ màu trắng. “Thuốc ngứa, suýt nữa thì bị phí hoài cho ca.”

Tạ Chiêu Anh dở khóc dở cười. “Từ lúc nào mà muội luôn mang theo thuốc trên người vậy?”

Tôi cười nhạt. “Từ khi muội biết những người xung quanh mình không thể tin được.”

Tạ Chiêu Anh không nói gì, đi thắp đèn.

Tôi mở lòng bàn tay ra. “Vẫn phần nửa con ngỗng quay đây, biết ca về kiểu gì cũng đói.”

Tạ Chiêu Anh cười. “Muội vẫn là chu đáo nhất.”

Tôi lừ mắt nhìn anh ta gặm đùi ngỗng, hỏi thẳng: “Ca phải quay về thành Tây Dao chưa?”

Tạ Chiêu Anh ngừng ăn, ngẩng đầu nhìn tôi. Ánh mắt anh ta trong veo, mang theo cả sự nghi hoặc, thần thái vừa thản nhiên vừa tập trung, ai nhìn cũng sẽ nghĩ anh ta là bậc quân tử. Chỉ có tôi hiểu bản chất anh ta, giống như gian hầm cũ ở dưới thư các nhà họ Tạ, ngoài châu báu ra còn có một đống cá khô dưa muối, mạng nhện bụi bặm.

Tuy nhan sắc của tôi không được mận đào hưng lúc này vẫn lạnh lùng như băng tuyết. “Vẫn giả vờ à? Nhị ca, hay là Yến vương điện hạ đây?”

Tạ Chiêu Anh bỏ đùi ngỗng xuống, lau mép. “Muội biết từ lúc nào?”

Tôi cười, bảo: “Hoàng thượng là người cẩn thận như vậy, hổ phù lại là tín vật quan trọng, nếu không phải là Yến vương đích thân đến nhận, hoàng thượng liệu có đưa không?”

Kỳ thực, ngay từ lần đầu tiên gặp Triệu hoàng hậu tôi đã nghi ngờ rồi, nhưng vẫn không nói ra vì chứng cứ chưa đầy đủ. Bây giờ tình hình đã thay đổi, tôi cũng không tiếp tục chờ đợi được nữa, đành phải đánh cược một lần, không ngờ trúng phóc.

Tạ Chiêu Anh không nói năng gì. Tôi vẫn không quen với dáng vẻ nghiêm túc của anh ta, giống như kiểu nhìn thấy diễn viên hài mang bộ mặt nghiêm trọng diễn chính kịch văn nghệ ái tình. Nói thật là Tạ Chiêu Anh trông rất tuấn tú, khi nghiêm túc trông có khí chất trầm ổn của quân nhân, nhưng tôi luôn cảm thấy trong con người anh ta có một nét nguy hiểm, nếu không để ý sẽ bị tấn công.

Tôi hỏi: “Cha đã biết chưa?”

Tạ Chiêu Anh đáp: “Cha biết, nhưng mẹ và những người khác đều không biết.”

Tôi nói: “Không biết là tốt.” Có những chuyện, biết càng ít càng tốt. Tôi lại hỏi: “Trước đây muội có biết không?”

Tạ Chiêu Anh nhếch miệng. “Muội chỉ biết ta hay nửa đêm trèo tường vào nhà, đôi khi đi gặp một vài người lạ.”

“Cho nên ca mới đòi muội cam kết không được nói ra. Hôm đó ca hỏi muội có nhớ chuyện trong quá khứ hay không, muội nói không nhớ, ca liền thở phào.”

Tạ Chiêu Anh gật đầu cười mỉm. “Có những chuyện, biết được chỉ thêm phiền.”

Tôi ngồi xuống bên cạnh anh ta, lưỡng lự hồi lâu rồi vẫn hỏi: “Nhị ca, thế… nhị ca thật của muội đâu?”

Tạ Chiêu Anh không nhìn tôi, khuôn mặt anh ta như nhuốm một sắc thái phức tạp, giống như mây mù phủ trên đỉnh núi xa. Có điều, trong ánh mắt anh ta khắc ghi một nỗi đau đớn, như thể câu hỏi của tôi đã đụng chạm đến một hồi ức đau khổ nào đó của anh ta.

Tôi ngoan ngoãn ngồi bên cạnh anh ta, ngọn nến bỗng nhiên bùng lên tia lửa, tôi nghe Tạ Chiêu Anh bắt đầu kể chuyện, giọng ngậm ngùi:

“Ta xếp thứ sáu trong nhà, bên trên có ba chị gái, hai anh trai. Mẫu thân của ta là chị họ xa của Tạ phu nhân, kém anh trai cả của ta đến mấy tuổi, tính tình hoạt bát, thông minh nhanh nhẹn, luôn được tiên đế yêu quý. Năm ta bốn tuổi, mẫu thân vì sinh nở khó khăn nên qua đời. Năm sau, tiên đế cũng tạ thế. Anh trai cả kế vị.” Tạ Chiêu Anh dừng lại, một lúc sau mới nói tiếp: “Đại ca đối với mọi em trai khác rất nghiêm khắc, áp đặt, nhưng với ta, chắc bởi vì ít tuổi nên mười phần chiều chuộng.

Hoàng thượng vốn lấy Lưu hoàng hậu, là người hiền hòa, nhân hậu nhưng nhiều năm mà không có con. Trong khi đó họ Triệu lại sinh được hoàng trưởng tử. Họ Triệu khi ở trước mặt mọi người thì nhanh nhẹn, lanh lợi, trên dưới đều có người nâng đỡ, địa vị dần dần cao lên. Gia tộc họ Triệu cứ thế mà lớn mạnh. Rồi Lưu hoàng hậu lâm bệnh qua đời, Triệu thị theo lẽ đương nhiên lên ngồi vị trí đó, hoàng trưởng tử cũng được phong thái tử. Ta với thái tử bằng tuổi nhưng ta ở vai trên anh ta một bậc, cùng nhau lớn lên từ tấm bé. Thái tử không trầm ổn, trí tuệ như hoàng thượng, cũng không tinh ranh, lanh lẹ như họ Triệu, mà là một người thật thà, nồng nhiệt. Mùa thu Vĩnh Bình năm thứ năm, trong cuộc săn bắt ở Thượng Lâm uyển, thái tử táy máy bắn chết con thỏ hoang, bị hoàng thượng khiển trách, dạy dỗ, trong khi đó, ta lập mưu bắt sống một con báo, hoàng thượng lại ban thưởng cho ta ngay tại chỗ, ta tận mắt nhìn thấy họ Triệu thay đổi sắc mặt.”

Tôi hiểu ra được điểm mấu chốt: “Bà ta sợ ca đe dọa đến địa vị của thái tử?”

Tạ Chiêu Anh gật đầu. “Triệu lão gia vốn là võ tướng có danh tiếng, vì mỹ nhân mà không thiết giang sơn, ông ta vì một phu nhân mà từ quan. Nhưng hai người con trai của nhà họ Triệu từ nhỏ đã thông minh đĩnh ngộ, lại có dã tâm, thi cử đỗ đạt công danh xong thì thẳng tiến lên mây xanh, rồi gả em gái cho đại ca ta làm trắc phi. Họ Triệu vốn có địa vị thấp nhất trong đám thê thiếp, nhưng mẹ do con mà hiển quý, nên được đại ca ta yêu chiều. Nhà họ Triệu từ bình dân mà leo lên quyền quý thiên hạ, càng đạt được nhiều thì càng sợ mất đi nhiều. Bà ta làm sao có thể dung nạp một biến số là ta?”

“Bà ta muốn giết ca sao?”

Tạ Chiêu Anh cười nhạt. “Lúc đó ta còn nhỏ tuổi, bà ta chỉ định giáo huấn ta, bắt ta hiểu được thân phận. Hoàng thượng lập tức biết được chuyện đó, nhưng lúc đó sức khỏe của huynh ấy đã kém đi rồi, quốc sự ngập đầu, bè đảng họ Triệu lại đang mạnh dần, huynh ấy không thể bảo vệ cho ta về mọi mặt nên ta đã phải chịu cực khổ ít nhiều.”

Anh ta chỉ kể qua loa bằng giọng điệu nhẹ nhàng như vậy. Tôi bỗng nhớ đến những vết thương khắp người anh ta, không giống như chỉ chịu cực khổ chút ít mà tạo nên được. Đàn ông luôn nói bớt, coi nhẹ những khó khăn gian khổ, là bởi vì họ đã trải qua quá nhiều đau thương.

“Ta không có ý đồ đoạt ngôi hoàng đế, luôn luôn né tránh chối từ, chỉ đợi ngày thành niên được phong ngôi vương thì sẽ rời kinh về nơi vắng vẻ. Nhưng vào năm ta mười bốn tuổi, sông Bích Lạc đổi dòng, nhà cửa, đồng ruộng bị ngập hết, hàng trăm ngàn người dân mất nhà cửa. Hoàng thượng muốn thái tử được rèn luyện nên điều anh ta đi cứu người, lại muốn ta tránh xa sự bức hại của họ Triệu nên phái ta đi cùng. Đến nơi thiên tai, ta phát hiện ra họ hàng thân thích của họ Triệu thông đồng với quan lại của địa phương ăn bớt khoản lương thực cứu trợ, còn dùng tư hình để hãm hại, giết chết người dám tố cáo. Thái tử nhu nhược, ta lại non trẻ, nông nổi, nên thiếu cân nhắc, chỉ nghĩ rằng đã tìm được một cách tốt để lật đổ gia tộc họ Triệu...” Anh ta dừng lại một lát rồi nói tiếp: “Lúc đó ta có một nhóm người luôn túc trực bên cạnh, Hàn Diên Vũ, Úc Chính Huân và cả Tạ Chiêu Anh đều ở trong số đó, đều là những thanh niên có tiếng trong Thái học. Tạ Nhị và ta thân thiết nhất, thường xuyên cùng nhau đọc sách, luyện võ. Bọn ta là anh em họ xa, lại có vẻ ngoài đặc biệt giống nhau, hồi bé ta gây chuyện, đều là huynh ấy đóng giả ta đi nhận tội. Riêng trong chuyện này, Tạ Nhị kiên quyết phản đối ta đi buộc tội nhà họ Triệu, nhưng ta cảm thấy mình đã nhận quá đủ từ bà già họ Triệu nên không thể nghe lời dễ dàng như vậy. Rồi kết cục lại đúng như huynh ấy dự liệu, nhà họ Triệu cây to rễ sâu, làm sao có thể dễ dàng lật đổ? Những đại thần vốn ủng hộ ta vạch tội chẳng qua là muốn lợi dụng cơ hội để bảo vệ quyền lợi của bản thân, nhìn hướng gió không thuận thì lập tức đổi hướng buồm chuyển hướng thuyền, hất cẳng ta đi.

Đó là lần thất bại đẫm máu đầu tiên trong cuộc đời ta, lần đầu tiên ý thức được sự ấu trĩ, non nớt của mình, cũng là lần đầu tiên hiểu rõ về uy lực của con dao hai lưỡi quyền lợi. Hoàng thượng lo lắng, bệnh tật phát tác, vội vàng ra chiếu thư phong cho ta làm Yến vương trước thời hạn, phái ta tới thành Tây Dao xa xôi, muốn ta hoàn toàn tránh xa vòng quyền lực. Nhưng huynh ấy đã đánh giá thấp sự hiểm ác, cay độc của họ Triệu, nghĩ rằng chỉ cần đưa ta đi xa, họ Triệu sẽ buông tha, ta sẽ được an toàn…”

Ngọn nến khẽ lay động, tôi bỗng cảm thấy hơi lạnh, ôm lấy vai. Má Tạ Chiêu Anh - Tiêu Huyên được phủ một lớp ánh sáng vàng kim, dường như tôi thấy một bóng dáng đao quang kiếm ảnh trong đôi mắt đã ngưng kết những băng sương kia.

“Hộ tống ta đi tới vùng lãnh địa có cả thảy một trăm lẻ bảy người, đều là những cao thủ do hoàng thượng đích thân chọn lựa, ngoài ra còn có Úc Chính Huân và Tạ Chiêu Anh kiên quyết tự nguyện đưa ta xuất quan. Bọn ta thẳng tiến về phía bắc, lúc đi đến Định Sơn Quan thì chỉ còn lại mười bảy người. Chính Huân bị trọng thương, buộc phải lưu lại trong quan ải để nghỉ ngơi, phục hồi. Nhưng nguy hiểm chính lại ở bên ngoài quan ải, đội quân quyết sát của họ Triệu mai phục ở bên đường, đợi đưa ta vào chỗ chết. Nếu như ta chết ở trong quan ải, bọn họ sẽ không thoát được tội, nếu ta chết ngoài quan ải thì sẽ đổ tội lên đầu bọn người nước Liêu, không can hệ gì đến chúng cả.”

Anh ta hít một hơi thật sâu, rồi mới kể tiếp: “Hôm đó mới là mùa thu nhưng bên ngoài quan ải đã là mùa đông. Trong làn tuyết rơi dày, trong đất trời xám lạnh luôn có kẻ thù giết không xuể, luôn có bẫy ngầm đạp không hết, nhưng người bên mình thì cứ bớt dần từng người, từng người một. Lưỡi kiếm của ta dính đầy máu, gió lạnh thổi qua, nhanh chóng đóng băng rồi khi binh đao chạm nhau, lại rơi ra từng mảng. Ta không phải là người dễ dàng nhận thua nhưng không thể không nghĩ đến cái chết. Đến cuối cùng, bên cạnh ta chỉ còn Tạ Chiêu Anh. Hơ, Lão Nhị được sư phụ thiên vị, truyền cho một loại kiếm pháp nên huynh ấy lấy cớ đó bảo ta đi trước. Ta làm sao có thể để huynh đệ chết thay mình? Nhưng ngay trong thời khắc quan trọng nhất, kiếm trong tay ta lại gãy đôi, Lão Nhị phi thân xông đến đỡ một đao cho ta.”

Tôi nín thở.

Tiêu Huyên nhìn tôi cười đau đớn. “Thanh long đại đao, chém núi chặt gỗ, Tạ lão nhị dù có tinh thông kiếm pháp nhưng thân thể thiếu niên chưa vững vàng, làm sao có thể đỡ nổi? Từ vai trái cho đến ngực, da rách thịt tan, máu chảy như suối. Huynh ấy chỉ còn cách dùng khẩu hình nói: “Đi.” Đến chết vẫn không nhắm mắt.”

Tôi không kìm được run rẩy toàn thân, hơi thở dồn dập. “Vết thương của ca… vết thương sau lưng ca…”

Tiêu Huyên cười, xoa tay lên vai. “Đúng thế, chính là vết thương lần đó. Đại đao xuyên qua cơ thể huynh ấy rồi vạch một đường sâu vào vai ta. Máu Tạ Nhị chảy đẫm người ta, ta cõng huynh ấy, dùng chút sức lực cuối cùng để chạy về phía trước. ta nghĩ nếu chạy thêm được một bước thì thêm xứng với những người đã xả thân vì ta. Cả cuộc đời này ta sẽ ghi nhớ, ta đã đi trên những vùng tuyết chưa có vết chân người như thế nào, loạng choạng từng bước để đi về phía trước, khi ngã xuống thì dùng cả tay lẫn chân để tiếp tục bò. Khi kẻ ở phía sau giơ cao đại đao, đang chuẩn bị giáng đòn thì một mũi tên bay tới găm vào ngực hắn.”

“Là ai vậy?” Giọng tôi cất lên the thé đến mức bản thân tôi cũng không nhận ra. “Là ai đã cứu ca?”

Mắt Tiêu Huyên nhìn xuống. “Là tướng quân Lý Văn Trung, muội cũng đã từng gặp ông ta. Ông ta là tướng lĩnh canh giữ thành Tây Dao. Hôm đó ông ta đến đón ta, may là vì ông ta lo lắng thời tiết thay đổi nên đã đi trước một ngày và mới kịp nhìn thấy màn tàn sát đó, rồi kéo mũi tên bắn ra khỏi cung, cứu được ta.”

Tôi từ từ đứng dậy, cảm thấy có chút hoa mắt chóng mặt. Giữa đêm khuya yên ắng, tôi lại nghe thấy những âm thanh giết chóc vang vọng bên tai. Gương mặt Tạ Chiêu Anh, không phải, là Tiêu Huyên nhuốm sự đau xót nặng nề, nỗi đau đầy rồi tràn ra, chảy vào trong tim tôi. Mắt tôi cay sè.

Anh ta nói: “Năm đó ta mười bốn tuổi, chưa kịp đội mũ thành niên mà đã chết một lần. Sau khi tỉnh lại, thoắt cái đã trở thành Yến vương, lục hoàng tử ngây thơ, non nớt của thâm cung đã mai táng cùng Tạ Chiêu Anh trong đồng tuyết. Ta mang trên vai số mệnh của một trăm lẻ tám con người, nhưng đó mới chỉ là bắt đầu. Mười năm qua, biết bao nhiêu lần ám sát, biết bao nhiêu con người đã hy sinh? Ta vốn không phải là người lạnh lùng khát máu, ta cũng không muốn làm người máu lạnh bạc tình, nhưng ta đã đạp lên trên bao nhiêu xương máu của người khác để tiếp tục sống, ta phải sống tốt hơn, tuyệt đối không được phụ lòng những người đó. Ta ghi nhớ sâu sắc từng con người, thề rằng sẽ có một ngày trả ơn cho từng món nợ. Còn Tạ Chiêu Anh…” Giọng anh ta dịu đi. “Huynh ấy tiễn ta ra ngoài quan ải, chỉ nói với người thân là đi du học. Huynh ấy cùng với Chính Huân bí mật hộ tống ta, những thích khách kia bị Lý tướng quân diệt sạch, chuyện này không một ai hay biết. Huynh ấy không quay về nữa, Tạ thái phó một đêm mà già đi mười tuổi, nhưng không nói ra được với ai, lại còn phải dạy bảo con cái thay Tạ phu nhân. Mỗi năm ta hồi kinh hai lần, luôn dùng tên Tạ Chiêu Anh để đi lại nghênh ngang. Có Hàn tiểu vương gia giúp loan tin rằng nhị công tử nhà họ Tạ lang bạt, chơi bời khắp nơi, hành tung bất định, cũng rất hợp lý. Chỉ là nhiều khi nghĩ, huynh ấy ở trên trời có linh thiêng, thấy mấy người chúng ta làm ô uế thêm thanh danh vốn đã không lẫy lừng gì của huynh ấy, không biết sẽ tức giận đến mức nào…”

Giọng anh ta lạc đi rồi dừng hẳn lại, quay đầu sang bên. Trên vai anh ta dường như thực sự có một gánh nặng mà mắt thường không nhìn thấy.

Tôi không kìm được tiến gần lại, chìa tay ra, nhẹ nhàng ôm anh ta từ phía sau, ngả đầu vào vai anh ta.

Anh ta run lên khe khẽ.

Tôi nói: “Nhị ca, kẻ sĩ sẵn sàng chết vì tri kỷ, ca và huynh ấy đề biết rõ.”

Đêm ấy chúng tôi đều không ngủ.

Tôi ngồi bên Tiêu Huyên, nghe anh ta kể những câu chuyện cũ. Tiêu Huyên không phải người ưa nhiều chuyện nên chỉ kể những điểm mấu chốt về cuộc sống trong quân, tiện thể nhấn mạnh mình đã nhọc nhằn khổ luyện để được quân sĩ yêu mến, tín nhiệm như thế nào. Anh ta cũng kể rất nhiều chuyện về Tạ Chiêu Anh. Tạ Chiêu Anh tính tình hào sảng, không thích chữ nghĩa, bút mực mà chỉ thích đao kiếm, nhưng Tạ thái phó khinh thường nhất là bọn vũ phu nên anh ta chỉ còn cách học trộm võ nghệ. Năm đó bọn họ có bốn người, Tiêu Huyên, Tạ Chiêu Anh, Úc Chính Huân và Hàn Diên Vũ, vì tuổi còn nhỏ, tính tình lại phong lưu nên đã gây ra không ít chuyện thị phi trong cung và nhà Thái học, bị gọi là “Tứ hại”. Sau này, khi Tạ Chiêu Anh qua đời, Tiêu Huyên hằng năm đều không quản nguy hiểm từ thành Tây Dao quay về thăm nhà họ Tạ, thay Tạ Chiêu Anh làm tròn chữ hiếu.

“Tạ phu nhân không hề nhận ra điều gì sao?”

“Tạ phu nhân chỉ coi như Lão Nhị đi du học không về. Huynh ấy là con thứ, không phải gánh vác cơ nghiệp của gia tộc nên cũng không yêu cầu cao.”

Tôi bỗng nhỡ ra: “Huynh ấy có nhắc đến muội không?”

Tiêu Huyên liếc nhìn tôi. “Lúc đó muội mới có vài tuổi, vẫn còn là một con nha đầu ngốc nghếch, nhắc đến muội làm gì?”

“Cũng phải.” Tôi cười. “Chỉ là nghĩ đến chuyện huynh ấy là ca ca của muội, vậy mà muội chỉ có thể nghe chuyện của huynh ấy từ miệng người khác, khiến huynh ấy giống như một nhân vật trong truyện vậy.

Tiêu Huyên đáp: “Lão Nhị tuy sống trên đời ngắn ngủi nhưng đó thực sự là một câu chuyện cảm động.”

Tôi hỏi: “Huynh ấy được chôn ở đâu?”

“Ở thành Tây Dao. Ta lập cho huynh ấy một ngôi từ đường, nhưng không thể ghi danh, đành phải dùng tên của chiến sĩ đã chết trận ở biên cương. Ta đã thề rằng, sau này sẽ có ngày ta quang minh chính đại quay trở về, làm hậu táng chu đáo cho huynh ấy.” Tiêu Huyên thở dài. “Nhanh thật, mới đó đã mười năm trôi qua.”

Mười năm. Người thiếu niên năm đó giờ đã trở thành một thanh niên thâm trầm, cơ trí. Trong quãng thời gian đó có biết bao nhiêu ân oán xảy ra mà vẫn chưa có hồi kết.

Tôi đổi chủ đề câu chuyện: “Ca đã thành thân chưa?”

Tiêu Huyên cười. “Di Tâm ư? Cô ấy là con gái Trịnh quận thủ Thai Châu. Hoàng thượng sắp xếp hôn nhân cho ta, chọn ra Thai Châu ở ngay phía nam thành Tây Dao. Nếu như sau này… triều đình có động tĩnh gì thì có thể hòa hoãn ở Thai Châu.”

Tôi tò mò: “Cô ấy thế nào?”

Ánh mắt Tiêu Huyên tối lại, nói: “Cô ấy qua đời gần ba năm rồi.”

Hả? Cũng chết rồi?

“Sức khỏe của cô ấy không tốt. Thầy thuốc khuyên không nên sinh con nhưng cô ấy không nghe. Khi có thai đến tháng thứ năm thì sinh non. Ta mời thầy thuốc khắp nơi nhưng ai cũng bó tay hết sách, cuối cùng không cứu nổi… Cô ấy là một người con gái tốt.”

Tôi nghĩ, năm tháng, đứa bé cũng không thể cứu được. Tang vợ lại cả tang con, những người thân cận xung quanh Yến vương điện hạ có vẻ như đều không trường thọ, nếu tính lá số tử vi cho anh ta thì có thể nói anh ta là Thiên sát cô tinh.

Tôi muốn nói mấy câu an ủi nhưng sở học nông cạn, từ ngữ nghèo nàn, tự nhiên ma xui quỷ khiến thế nào lại buột ra: “Thế Phi Hoa tỷ thì sao?”

Tiêu Huyên quay sang nhìn tôi, cười. Tôi đỏ mặt, cúi đầu.

Tiêu Huyên thở dài, lắc đầu, tôi nghĩ anh ta chuẩn bị giáo huấn tôi một bài, nhưng anh ta chỉ nói: “Ta với Phi Hoa là bạn thanh mai trúc mã, ta đã từng nghĩ sẽ cưới cô ấy.”

Anh ta chỉ nói sơ qua như vậy mà tôi nghe ra cả một bầu tâm sự sâu lắng.

“Bây giờ không nghĩ thế nữa?”

“Bây giờ ta hoàn toàn không nghĩ đến chuyện đó nữa. Lúc này, người con gái nào theo ta đều sẽ phải chịu khổ sở, nếu như ta thất bại thì sẽ làm liên lụy đến cô ấy, thế có nên chăng? Ta với Tần đại nhân đứng ở hai phía, cô ấy bị kẹp ở giữa cũng khó xử. Ta biết cô ấy sống tốt, thế là được rồi.”

Tôi muốn nói rằng những người bên cạnh đều đã qua đời khiến anh ta quá sợ rồi, nhưng lời đó tàn nhẫn quá, tôi không nỡ nói ra miệng.

Tôi đành nhắc lại câu cũ: “Khi nào ca quay về thành Tây Dao?”

Tiêu Huyên nói: “Khi trời sáng.”

“Hả?” Tôi thảng thốt. “Gấp vậy sao?”

“Ta đã lưu lại kinh thành quá lâu rồi. Bè đảng nhà họ Triệu đa nghi như vậy, ta trốn được lần này nhưng chưa chắc đã trốn được lần sau. Thứ cần tìm đã có trong tay, lưu lại thêm cũng không có ích gì.”

“Nhưng cả đống hỗn loạn này phải làm sao?”

Tiêu Huyên cười nham hiểm. “Muội nghĩ tại sao ta phải trốn chạy?”

Tôi sực tỉnh: “Vô sỉ!”

Anh ta tặng lại: “Vô lại.”

Tôi tức giận. “Muội vô lại ở điểm nào?”

“Muội quang minh lừng lẫy lắm sao? Thế thì muội ở lại làm nhị hoàng phi đi. Tiêu Lịch rất có tương lai, muội sẽ nhanh chóng được làm thái tử phi, sau đó sẽ thành mẫu nghi thiên hạ rồi.”

Tôi nghe ra được điểm mấu chốt. “Cái gì, cái gì? Ca định đưa muội đi theo sao?”

Tiêu Huyên khẽ mắng: “Ngốc như con lợn vậy!” Nhưng giọng điệu lại rất nhẹ nhàng.

Cuối cùng anh ta cũng bắt đầu mắng người rồi, chứng tỏ rằng tinh thần gang thép của anh ta đã quay trở lại, Yến vương u uất luôn tự trách mình giờ đã tạm lùi phía sau.

Tôi thở phào, mặt mũi nhâng nháo nhìn anh ta. “Nhị ca nghĩa khí ngất trời, đương nhiên sẽ không vứt muội lại một mình được rồi.”

Tiêu Huyên cười, hỏi: “Muội gọi ta là gì?”

Tôi ngọt ngào đáp: “Nhị ca.”

Tiêu Huyên chìa tay ra, tôi cứ tưởng anh ta lại véo má tôi, nào ngờ anh ta khẽ ôm lấy tôi. Tôi nghe thấy tiếng trái tim đập trầm ổn mà vững chắc dưới lồng ngực ấm áp của anh ta.

Anh ta nói: “Ta sống thay cho Lão Nhị, nên sẽ thay huynh ấy chăm sóc muội.”

Tôi nghe lòng mình khe khẽ run lên, vòng tay ôm chặt lấy lưng anh ta.

Tiêu Huyên buông tôi ra, nói: “Ta có việc phải đi, Tử Kính sẽ đưa muội đi. Hai người đi thẳng lên phía bắc, qua Xuyên Giang thì sẽ tới Hồ Châu. Chúng ta hẹn gặp nhau ở huyện Nhân Thiện.” Nói rồi, anh ta lại dặn dò tôi với giọng cẩn thận của người già: “Muội phải ngoan, trên đường phải nghe lời Tử Kính, không gây chuyện, ăn quà ít thôi.”

Tôi lừ mắt. “Muội nghe lời thì được cái gì?”

Tiêu Huyên cười gian ác. “Thì ta sẽ kiếm cho muội nơi tốt để gả.”

Tôi đá anh ta ra khỏi cửa.

Tiêu Huyên đi rồi, trời đã tờ mờ sáng, tôi ngồi không yên, chống cặp mắt quầng đen lên đi tìm Tống Tử Kính.

Lúc này là thời điểm chó vẫn ngủ còn gã đã thức, Tạ phủ bốn bề yên ắng, tôi như tên trộm lẻn vào thư viện. Cuối cùng nhìn thấy một người đứng bên cánh cửa phòng, không phải là Tống Tử Kính tiên sinh thì còn ai vào đây nữa?

Tiên sinh mặc một bộ y phục thường dân giản dị màu lam, không có áo choàng tay dài như mọi ngày mới nhìn ra tuy y gầy nhưng không yếu, thân hình mảnh dẻ nhưng cân đối, vai rộng hông hẹp, vô cùng dễ coi. Nếu y là hiệp sĩ cũng chắc chắn sẽ là phần tử trí thức cấp cao trong số các đại hiệp. Người ta nói Đông Tề đặc biệt nhiều nho tướng, nhưng tôi lại thấy có khi còn có cả nho hiệp.

Y hỏi tôi: “Khi nào đi?” Câu này lẽ ra phải là tôi hỏi y chứ?

Tôi hỏi: “Tiên sinh đã thu dọn xong chưa?”

Tống Tử Kính cười sảng khoái. “Có gì để dọn đâu?” Bái phục! Tất cả không có gì ngoài tấm thân.

Tôi xoa tay. “Tốt, tốt! Đợi tôi gọi Vân Hương rồi sẽ đi.”

“Bây giờ? Trời vẫn chưa sáng.”

Tôi nhe răng, mắt phóng điện. “Bỏ trốn đương nhiên phải vào lúc đèn tắt lửa tàn.”

“Bỏ trốn?” Tống Tử Kính giật mình.

Tôi cười lớn. “Bỏ trốn! Bỏ trốn! Tạ tứ nương lòng xuân dâng tràn, cùng với tình lang bỏ trốn đến biên cương, còn điều gì hợp lý hợp tình hơn thế nữa?”

Tống Tử Kính lĩnh ngộ, cười toét miệng. “Tiểu thư quả là thông minh.”

Tôi cười đắc ý. “Tiên sinh, từ nay tôi gọi tiên sinh là ca ca nhé!”

Tống Tử Kính cúi đầu, cười. “Ca ca của tiểu thư thật rõ nhiều.”

Mặt tôi ửng đỏ, “Càng nhiều càng tốt mà.”

Tống Tử Kính dở cười dở khóc, cũng thấp giọng nói: “Chúng ta đi thôi.”

Y nắm lấy tay tôi, kéo tôi lại ôm vào lòng. Tôi bất ngờ, chưa kịp phản ứng lại thì y đã thả tôi ra. Tôi phát hiện trên thắt lưng có một sợi tiểu châu bội.

“Cái này là gì?”

“Ngọc có mùi hương, người thường không ngửi thấy nhưng chim sẽ biết, đến khi cần sẽ truyền tin tình báo.”

Tôi khen ngợi: “Thật chu đáo!”

Tống Tử Kính đưa tôi và Vân Hương ra khỏi Tạ phủ. Lúc này, phía chân trời đã hiện ra những áng mây bạc. Trên cây, những con chim dậy sớm đã bắt đầu ca hát, con chó nhà Vương tri phủ bên cạnh đã thức dậy, bắt đầu sủa ăng ẳng. Tôi hít thở không khí trong lành, quay đầu nhìn ngôi nhà tôi đã ở nửa năm qua lần cuối.

Nơi này không giữ được tôi, nên tôi không có chút tâm trạng lâm li bi đát nào mà ngược lại, còn có cảm giác tươi mới như bắt đầu một chuyến du lịch.

Tôi nhìn lên bầu trời phía bắc, nơi có màu xanh mông lung như nước, trong lòng vẽ ra một thảo nguyên bát ngát, bao la.
Chương trước Chương tiếp
Loading...