Lá Thư Trong Chai

Chương 13



Năm sau, mùa đông đến sớm. Ngồi trên bờ biển gần nơi lần đầu tiên cô phát hiện ra cái chai, Theresa nhận ra rằng những cơn gió biển lạnh giá đã trở nên mạnh hơn kể từ khi cô tới sáng hôm đó. Những đám mây xám xịt đáng ngại vần vũ trên đầu, những con sóng bắt đầu dâng lên và liên tiếp xô vào bờ. Cô biết cơn bão cuối cùng cũng đang tới gần.

Cô đã ra đây gần cả ngày, hồi tưởng lại quan hệ của họ từ ngày chia tay, sàng lọc ký ức như thể để tìm kiếm chút thấu hiểu mà có thể trước kia cô đã bỏ qua. Năm qua, cô đã bị ám ảnh bởi vẻ mặt của anh lúc anh đứng ở lối lái xe vào nhà, bóng anh trong gương chiếu hậu đang đuổi theo xe cô khi cô lái đi. Lúc đó, rời bỏ anh là chuyện khó khăn nhất mà cô từng làm. Cô thường ước có thể quay ngược thời gian và sống lại ngày hôm đó.

Cuối cùng cô đứng đây. Cô lặng lẽ bước đi dọc bờ biển, ao ước anh ở đây. Anh sẽ thích một ngày tĩnh lặng, mù sương như thế này, và cô tưởng tượng ra anh đang đi bên cạnh trong lúc cô nhìn về phía chân trời. Cô dừng lại, bị mê hoặc bởi mặt nước đang khuấy tung và cuồn cuộn, và cuối cùng, khi quay đầu đi, cô nhận thấy ảo ảnh của anh cũng đã bỏ rơi cô. Cô đứng đó một lúc lâu, cố gắng đưa anh trở lại, nhưng khi ảo ảnh đó không trở lại, cô biết đã đến lúc ra về. Cô lại bước đi, dù lần này chậm rãi hơn, tự hỏi liệu anh có đoán được lý do cô tới đây không.

Dù không muốn, cô vẫn cảm thấy những suy nghĩ của mình lại trở về với những ngày ngay sau khi họ chia tay lần cuối. Chúng ta dành quá nhiều thời gian bao biện cho những điều mà chúng ta không nói ra được. Cô trầm ngâm. Giá như, cô bắt đầu lần thứ một nghìn, hình ảnh của những ngày đó vụt qua trong óc cô như một chuỗi trình chiếu mà cô không thể ngừng lại được.

Giá như…

Sau khi về đến Boston, Theresa tới đón Kevin trên đường từ sân bay về nhà. Kevin vừa ở lại nhà đứa bạn một hôm, phấn khích kể lại chi tiết bộ phim nó đã xem, không hề nhận ra mẹ hầu như không nghe. Khi về đến nhà, cô gọi pizza, và hai mẹ con ngồi xuống phòng khách vừa ăn vừa xem ti vi. Ăn xong, cô khiến Kevin ngạc nhiên khi bảo nó ngồi lại với mình một lúc thay vì đi làm bài về nhà. Nó im lặng dựa vào cô trên đi văng, thỉnh thoảng lại liếc nhìn cô lo lắng, nhưng cô chỉ vuốt ve mái tóc nó và lơ đãng mỉm cười, như thể tâm trí cô đang ở tận nơi xa xôi nào đó.

Sau đó, khi Kevin đi ngủ và cô biết là nó đã ngủ say, cô thay một bộ đồ ngủ mềm mại và rót cho mình một cốc rượu vang. Khi trở lại phòng ngủ, cô tắt máy trả lời tự động bên cạnh điện thoại.

Thứ Hai, cô có một bữa ăn trưa dài với Deanna và kể cho bà nghe mọi chuyện đã xảy ra. Cô nói cố ra vẻ mạnh mẽ. Tuy nhiên, Deanna cứ nắm tay cô suốt, ân cần lắng nghe và nói rất ít.

“Như thế là tốt nhất,” khi đã kể xong xuôi, Theresa cương quyết nói. “Tôi sẽ ổn thôi.” Deanna nhìn thấu cô, mắt bà đầy thông cảm. Nhưng bà không nói gì, chỉ gật đầu với những tuyên bố dũng cảm của cô.

Vài ngày sau Theresa đã cố hết sức để không nghĩ tới anh. Viết bài cho chuyên mục giúp cô khuây khỏa. Việc tập trung nghiên cứu và diễn giải bằng lời lẽ thông dụng đã rút hết nguồn năng lượng mà cô có. Không khí say sưa ở phòng biên tập tin cũng giúp ích, và vì cuộc hội thảo qua điện đàm với Dan Mandel rốt cuộc cũng diễn ra như những gì mà Deanna hứa hẹn, Theresa bắt tay trở lại công việc với lòng nhiệt tình đã hồi phục, chuẩn bị cho hai hoặc ba bài chuyên mục mỗi ngày, nhanh hơn so với bất cứ thời điểm nào trước đó.

Tuy nhiên, tới buổi tối, sau khi Kevin đi ngủ và chỉ còn lại một mình, cô thấy thật khó ngăn hình ảnh anh cách xa cô. Theo thói quen khi làm việc, Theresa cố gắng tập trung vào những việc khác. Cô lau nhà từ trên xuống dưới suốt mấy tối sau đó - cọ sàn, lau dọn tủ lạnh, hút bụi và lau chùi căn hộ, sắp xếp lại tủ quần áo. Chẳng còn chỗ nào không đụng tới. Thậm chí cô còn lục ngăn kéo tìm những bộ đồ không còn mặc tới, dự định sẽ tặng cho hội từ thiện. Sau khi đã đóng những bộ quần áo đó vào thùng, cô mang chúng ra chất sau xe. Đêm ấy cô đi đi lại lại trong phòng, tìm kiếm việc gì đó - bất cứ việc gì - cần phải làm. Cuối cùng, nhận ra mình đã làm xong hết cả nhưng vẫn không ngủ nổi, cô bật ti vi lên. Chuyển hết kênh này sang kênh khác, cô dừng lại khi thấy Linda Ronstadt đang được phỏng vấn trong chương trình Tonight. Theresa vẫn luôn thích nhạc của cô ta, nhưng khi sau đó Linda bước tới chỗ cái mic để trình diễn một bản ballad mơ mộng thì Theresa lại khóc. Suốt gần một tiếng sau cô vẫn không thể ngừng khóc.

Cuối tuần đó, cô và Kevin đi xem đội New England Patriots đấu với đội Chicago Bears. Kevin đã bắt cô đi cùng ngay khi mùa giải kết thúc, và cuối cùng cô đã đồng ý đưa thằng bé đi, dù không thật sự hiểu về trận đấu lắm. Hai mẹ con ngồi trên hàng ghế khán giả, hơi thở phả ra thành những làn khói mỏng, uống sô cô la nóng chảy dính và reo hò cổ vũ cho đội nhà.

Sau đó, khi đi ăn tối, Theresa miễn cưỡng thông báo với Kevin rằng cô và Garrett sẽ không gặp nhau nữa.

“Mẹ, có chuyện gì xảy ra khi mẹ tới thăm chú Garrett lần trước thế? Chú ấy đã làm gì khiến mẹ giận à?”

“Không,” cô trả lời dịu dàng, “chú ấy không làm gì.” Cô ngập ngừng rồi liếc nhìn đi chỗ khác. “Chỉ là chú và mẹ không đủ duyên.”

Kevin rõ ràng có vẻ bối rối vì câu trả lời, nhưng lúc đó cô chỉ đủ sức giải thích đến như vậy.

Tuần tiếp theo, cô đang làm việc trên máy tính thì điện thoại đổ chuông.

“Theresa phải không?”

“Vâng, tôi đây,” cô trả lời, không nhận ra giọng nói đó.

“Tôi là Jeb Blake… bố của Garrett. Tôi biết chuyện này nghe có vẻ lạ, nhưng tôi muốn nói chuyện với cô.”

“Ồ, chào bác,” cô lắp bắp. “Ừ… giờ cháu rảnh một chút.”

Ông ngừng lại. “Tôi chỉ muốn gặp riêng cô nói chuyện, nếu có thể. Chuyện này tôi thấy không tiện nói qua điện thoại.”

“Cháu có thể hỏi là về chuyện gì được không?”

“Là về Garrett,” ông nói khẽ. “Tôi biết như vậy là đòi hỏi hơi nhiều, nhưng cô nghĩ là cô có thể bay về đây không? Tôi sẽ không đề nghị thế đâu nếu chuyện không quan trọng.”

Cuối cùng cũng đồng ý đi, Theresa rời cơ quan và tới trường của Kevin. Sau khi đón con sớm, cô để nó lại nhà một đứa bạn mà cô tin tưởng, giải thích rằng cô có thể sẽ đi vắng vài ngày. Kevin cố gắng hỏi cô về chuyến đi đột xuất này, nhưng hành động kỳ lạ, lơ đãng của cô cho thấy rõ ràng những lý do hẳn sẽ phải giải thích sau.

“Gửi lời chào của con nhé,” thằng bé nói, hôn tạm biệt cô.

Theresa chỉ gật đầu rồi đi ra sân bay và bắt chuyến bay đầu tiên có thể. Đến Wilmington, cô đi thẳng tới nhà Garrett, nơi Jeb đang đợi cô.

“Tôi mừng là cô đã tới,” Jeb nói ngay khi cô vừa vào.

“Có chuyện gì vậy ạ?” cô hỏi, tò mò nhìn khắp nhà xem có dấu hiệu nào là Garrett đang ở đây không.

Trông Jeb già hơn so với cô nhớ. Dẫn cô vào bàn bếp, ông kéo một cái ghế ra để cô ngồi xuống cùng. Cất giọng nhẹ nhàng, ông bắt đầu với những điều ông biết.

“Theo những gì tôi có thể thu thập được từ những cuộc nói chuyện với những người khác nhau,” ông nói nhỏ, “thì Garrett đã lái chiếc Happenstance ra biển muộn hơi mọi lần…”

Đó đơn giản là việc anh phải làm. Garrett biết những đám mây đen, nặng trĩu ở chân trời báo trước cơn bão sắp tới. Tuy nhiên trông chúng có vẻ xa đủ để cho anh thời gian cần thiết. Hơn nữa, anh chỉ ra biển vài dặm thôi. Dù bão có ập tới thật thì anh cũng sẽ ở gần đủ để quay về bến. Sau khi đeo găng tay vào, anh lái chiếc Happenstance vượt qua những cồn sóng đang nổi lên, những cánh buồm đã vào vị trí.

Trong suốt ba năm anh vẫn đi theo đúng một lộ trình mỗi khi ra biển, lộ trình được dẫn dắt bởi bản năng và ký ức về Catherine. Chính cô là người đã đưa ra ý tưởng đi thuyền thẳng tiến theo hướng Đông vào đêm hôm đó, đêm đầu tiên khi chiếc Happenstance sẵn sàng. Trong trí tưởng tượng của cô, họ đang đi tới châu Âu, một nơi mà cô vẫn luôn mong muốn được tới. Thỉnh thoảng cô lại mang theo vài tờ tạp chí du lịch từ cửa hàng trở về và giở xem những bức ảnh trong lúc anh ngồi cạnh cô. Cô muốn xem tất cả - những lâu đài nổi tiếng ở thung lũng Loire, đền thờ Parthenon, những cao nguyên Scotland, thánh đường Basilica - tất cả những địa điểm mà cô đã đọc. Cứ sau mỗi lần cầm lên một tờ tạp chí, kỳ nghỉ lý tưởng của cô lại thay đổi từ bình thường cho tới kỳ lạ.

Nhưng đương nhiên là họ chưa bao giờ tới được châu Âu.

Đó là một trong những nỗi hối tiếc lớn nhất của anh. Hồi tưởng lại cuộc sống với cô, anh biết đáng ra mình phải làm thế. Lẽ ra chí ít thì anh cũng phải làm được cho cô chuyện ấy, và nghĩ lại, anh biết điều đó hẳn đã có thể thực hiện được. Sau vài năm tiết kiệm, họ đã có đủ tiền đi và đã đùa bỡn về những kế hoạch du hí, nhưng cuối cùng lại sử dụng số tiền đó để mua một cửa hàng. Khi cô nhận ra rằng trách nhiệm đối với công việc làm ăn sẽ không bao giờ cho họ có đủ thời gian đi thì rốt cuộc giấc mơ của cô cũng bắt đầu tan biến. Cô bắt đầu ít mang tạp chí về nhà hơn. Một thời gian sau cô hầu như không mấy khi nhắc đến châu Âu nữa.

Tuy nhiên, đêm đầu tiên họ đưa Happenstance ra khơi, anh biết rằng mơ ước của cô vẫn còn. Cô đứng ở mũi thuyền, nhìn ra xa, nắm tay Garrett. “Bao giờ chúng ta đi được nhỉ?” cô dịu dàng hỏi, và anh cứ nhớ mãi hình ảnh của cô lúc đó: tóc cô bay phần phật trong gió, vẻ mặt cô rạng rỡ và tràn trề hy vọng, như gương mặt một thiên thần.

“Có chứ,” anh hứa với cô, “ngay khi chúng ta có thời gian.”

Chưa đầy một năm sau, trong khi đang mang thai đứa con của họ, Catherine đã qua đời trong bệnh viện, Garrett ở bên cạnh cô.

Sau này, khi những giấc mơ bắt đầu xuất hiện, anh không biết phải làm gì. Có một thời gian anh cố gắng gạt bỏ những cảm giác dằn vặt đi. Rồi một buổi sáng, trong cơn tuyệt vọng, anh đã cố gắng tìm kiếm sự khuây khỏa bằng cách trút những cảm xúc của anh ra thành lời. Anh viết nhanh, không nghỉ, và lá thư đầu tiên dài gần năm trang. Hôm đó, khi lái thuyền ra biển, anh mang theo lá thư đã viết xong và đọc lại, rồi đột nhiên anh nảy ra một ý. Vì hải lưu Dòng Vịnh vốn chảy lên phía Bắc qua vùng ven biển của Hoa Kỳ, cuối cùng gặp những dòng biển lạnh của Đại Tây Dương thì rẽ về hướng Đông, nên nếu có chút may mắn thì một cái chai sẽ có thể trôi tới châu Âu và dạt vào đất nước nào đó mà cô vẫn muốn tới thăm. Quyết định xong, anh cho lá thư vào trong chai gắn lại và ném nó qua mạn thuyền với hy vọng rằng làm vậy thế nào đó sẽ giữ được lời hứa của mình. Nó đã trở thành một thói quen mà anh không bao giờ phá vỡ.

Kể từ hồi đó anh đã viết thêm mười sáu lá thư nữa - mười bảy, nếu tính cả lá thư mà anh đang mang theo lúc này. Khi anh đứng bên bánh lái, hướng thuyền về phía Đông, anh lơ đãng chạm vào cái chai được đút trong túi áo khoác. Sáng nay anh đã viết nó, ngay khi thức dậy.

Bầu trời đang bắt đầu xám xịt lại, nhưng Garrett vẫn lái thuyền về phía trước, về phía chân trời. Bên cạnh anh, cái đài cứ lạch xạch cảnh báo về cơn bão đang tới. Sau một lát do dự, anh tắt nó đi và đánh giá bầu trời. Vẫn còn thời gian, anh quyết định như vậy. Gió mạnh và thổi đều, nhưng vẫn chưa đến mức không thể dự đoán được.

Sau khi viết lá thư này cho Catherine, anh cũng đã viết lá thư thứ hai. Lá thư đó anh đã kịp gửi. Tuy nhiên, chính vì nó mà anh biết mình phải gửi lá thư của Catherine ngay hôm nay. Những cơn bão vẫn nối tiếp nhau tràn qua Đại Tây Dương, từ từ di chuyển theo hướng Tây trong một cuộc diễu hành về vùng duyên hải miền Đông. Theo bản tin anh đã xem trên ti vi, xem ra anh khó có thể ra khơi trong vòng ít nhất là một tuần nữa, và thế thì phải đợi quá lâu. Tới lúc đó thì anh đã đi rồi.

Mặt biển động vẫn tiếp tục vồng lên: những cồn sóng vỡ ra ở mức cao hơn, những vùng lõm giữa các con sóng chạm đáy ở mức thấp hơn một chút. Những cánh buồm bắt đầu căng ra trước những cơn gió dữ dội, đều đặn. Garrett đánh giá tình hình. Nước ở đây sâu, tuy thế vẫn chưa đủ sâu lắm. Dòng Vịnh - một hiện tượng mùa hè - đã chấm dứt, và cách duy nhất để cái chai có cơ may trôi được qua đại dương là nó phải ở ngoài biển đủ xa khi được thả xuống. Nếu không cơn bão có thể sẽ đánh nó dạt vào bở trong vòng vài ngày - và trong số tất cả những bức thư anh đã viết cho cô, đây là bức anh mong đến được châu Âu nhất. Anh quyết định rằng nó sẽ là bức thư cuối cùng mình gửi.

Ở phía chân trời, trông những đám mây quả là đáng ngại.

Anh mặc áo mưa vào và cài khuy lại. Khi mưa ập tới, anh hy vọng là nó sẽ bảo vệ anh ít nhất là được một lúc.

Happenstance bắt đầu lắc lư khi tiến xa ra biển. Anh giữ bánh lái bằng cả hai tay, cố hết sức giữ cho chiếc thuyền vững vàng. Khi gió đổi chiều và mạnh lên - báo hiệu cơn bão đang ở trước mặt - anh bắt đầu đổi đường chạy, di chuyển theo đường chéo qua những cồn sóng bất chấp rủi ro. Trong điều kiện thời tiết như thế này thì việc đổi đường chạy quả là khó, nó làm chậm hành trình của anh lại, nhưng anh thà đi ngược chiều gió lúc này hơn là cố gắng đổi đường chạy trên đường về bến nếu cơn bão bắt kịp anh.

Nỗ lực đó vắt kiệt sức anh. Mỗi lần di chuyển những cánh buồm, anh phải vận dụng tới toàn bộ sức lực mà anh có để không mất kiểm soát. Dù đã đeo găng nhưng hai bàn tay anh bỏng rát hết cả khi bị những sợi dây trượt qua. Anh suýt mất thăng bằng hai lần, khi gió thổi giật tới bất ngờ, nhưng thoát được chỉ vì cơn gió giật tan đi cũng nhanh như lúc nó ập tới.

Gần một tiếng đồng hồ sau, anh tiếp tục đổi đường chạy trong khi vẫn nhìn cơn bão đang tới trước mặt. Nó sẽ ập vào bờ trong vòng vài giờ nữa. Ngay khi tới vùng nước nông hơn, cơn bão sẽ tiến nhanh hơn và tàu bè sẽ không thể đi lại được trên biển nữa. Bây giờ, nó chỉ đơn giản là tập trung hơi nước giống như một cái kíp nổ chậm đang sẵn sáng phát nổ.

Đã từng bị kẹt trong những cơn bão lớn, Garrett biết tốt hơn là chớ đánh giá thấp sức mạnh của cơn bão này. Chỉ cần bất cẩn một chút là biển sẽ nuốt chửng anh, và anh đã quyết tâm sẽ không để chuyện đó xảy ra. Anh bướng bỉnh, nhưng không ngu ngốc. Khi cảm nhận thấy mối hiểm họa thực sự, anh sẽ lái thuyền quay lại và chạy nhanh về bến.

Trên đầu, những đám mây vẫn tiếp tục dày thêm, vần vũ và xoắn lại thành nhiều hình thù. Mưa bắt đầu rơi nhẹ. Garrett ngước nhìn lên, biết rằng nó mới chỉ bắt đầu. “Chỉ vài phút nữa thôi,” anh thì thầm. Anh chỉ cần thêm vài phút nữa…

Chớp lóe lên trên bầu trời, và Garrett đếm từng giây trước khi nghe thấy tiếng sấm. Hai phút rưỡi sau cuối cùng nó cũng phát thành tiếng, rền vang khắp mặt biển rộng. Tâm bão chỉ cách khoảng hai mươi lăm dặm. Theo tính toán, với tốc độ gió như hiện tại thì anh có hơn một tiếng trước khi nó ập tới với toàn bộ sức mạnh. Anh định tới lúc đó đã đi xa rồi.

Chớp lóe lên trên bầu trời, và Garrett đếm từng giây trước khi nghe thấy tiếng sấm. Hai phút rưỡi sau cuối cùng nó cũng phát thành tiếng, rền vang khắp mặt biển rộng. Tâm bão chỉ cách khoảng hai mươi lăm dặm. Theo tính toán, với tốc độ gió như hiện tại thì anh có hơn một tiếng trước khi nó ập tới với toàn bộ sức mạnh. Anh định tới lúc đó đã đi xa rồi.

Mưa vẫn tiếp tục rơi.

Bóng tối bắt đầu bao trùm trong khi anh tiến về phía trước. Khi mặt trời xuống thấp hơn, những đám mây dày đặc bên trên che khuất hết những tia nắng cuối cùng còn sót lại, nhiệt độ nhanh chóng giảm xuống. Mười phút sau mưa bắt đầu trút xuống dữ dội và lạnh giá hơn.

Chết tiệt! Anh sắp hết thời gian rồi, thế mà anh vẫn còn ở đây.

Những cồn sóng có vẻ nhô cao hơn, mặt biển khuấy tung khi chiếc Happenstance cắt qua để tiến về phía trước. Để giữ thăng bằng, anh đứng dang hai chân ra thêm chút nữa. Bánh lái vẫn vững, nhưng những cồn sóng bắt đầu dồn tới theo đường chéo, lắc thuyền như một cái nôi lung lay. Anh vẫn kiên quyết dấn tới.

Vài phút sau chớp lại lòe lên… dừng lại… sấm. Hai mươi dặm nữa. Anh nhìn đồng hồ. Nếu cơn bão tiến tới với tốc độ này thì anh sẽ làm xong ngay trước khi bão tới. Anh vẫn có thể kịp quay lại bến, miễn là gió tiếp tục thổi theo hướng này.

Nhưng nếu gió đổi chiều…

Đầu anh lướt qua cảnh tượng đó. Anh đã ở ngoài biển hai tiếng rưỡi - theo chiều gió, anh sẽ cần tối đa là một tiếng rưỡi để quay về, nếu mọi chuyện diễn tiến theo đúng kế hoạch. Cơn bão sẽ ập vào bờ đúng lúc anh về tới nơi.

“Chết tiệt,” anh nói, lần này thì nói to. Anh phải thả cái chai ngay lúc này, mặc dù anh vẫn chưa ra được xa như anh muốn. Nhưng anh không thể mạo hiểm đi xa hơn nữa.

Anh nắm chặt bánh lái giờ đây đang rung lên bần bật bằng một tay trong lúc thò vào túi áo khoác lôi cái chai ra. Anh ấn vào nút chai để chắc nó đã được lèn chặt, rồi giơ cái chai lên trong ánh sáng đang tắt dần. Anh có thể nhìn thấy lá thư được cuộn chặt ở bên trong.

Nhìn nó chằm chằm, anh cảm thấy đã hoàn thành công việc, như thể một chuyến đi dài cuối cùng đã đến lúc kết thúc.

“Cám ơn mày,” anh thì thầm, giọng anh nhòa đi trên nền tiếng sóng xô.

Anh ném cái chai ra xa hết sức có thể và nhìn nó bay đi, biến mất khi chạm tới mặt nước. Thế là xong.

Đúng lúc đó, hai tia chớp cùng lúc rạch ngang bầu trời. Giờ thì còn mười lăm dặm nữa. Anh lưỡng lự, lo lắng.

Nó không thể tới nhanh đến thế, anh nghĩ. Nhưng cơn bão có vẻ như đang tăng tốc và mạnh lên, mở rộng ra như một quả bóng, tiến thẳng về phía anh.

Anh dùng cái thòng lọng để giữ vững bánh lái trong lúc quay lại chỗ đuôi tàu. Để mất mấy phút quý giá, anh điên cuồng giữ kiểm soát sào căng buồm. Những sợi dây bỏng rát trong tay anh, cứa rách găng tay. Cuối cùng anh cũng đổi được vị trí những cánh buồm. Chiếc thuyền nghiêng đi khi thu được gió. Khi anh lên đường trở về, một cơn gió mạnh thổi một luồng hơi lạnh buốt từ hướng khác tới.

Dòng khí nóng lao vào dòng khí lạnh.

Anh bật đài lên đúng lúc nghe thấy bản tin báo bão. Anh nhanh tay vặn to tiếng lên, nghe sát hơn khi đài phát thanh miêu tả thời tiết đang biến đổi. “Nhắc lại… bản tin báo bão… những cơn gió nguy hiểm đang hình thành… sẽ có mưa lớn.”

Bão đang mạnh lên.

Nhiệt độ xuống thấp nhanh chóng khiến gió tăng tốc một cách nguy hiểm. Trong vòng ba phút vừa qua tốc độ đã tăng lên hai mươi lăm hải lý.

Anh nghiêng người bên bánh lái với cảm giác khẩn trươn mỗi lúc một tăng lên.

Chẳng có gì xảy ra cả.

Anh chợt nhận ra rằng những cồn sóng nhô lên đang đẩy đuôi thuyền lên khỏi mặt nước, khiến bánh lái không phản ứng. Con thuyền dường như đóng đinh theo hướng anh không muốn, lảo đảo đến nguy hiểm. Anh lại lướt qua một cồn sóng nữa và thân thuyền va mạnh xuống nước, mũi thuyền suýt chìm xuống.

“Nào… chạm moóc đi,” anh thì thào, những sợi tua sợ hãi đầu tiên giương lên trong dạ. Việc này đang mất quá nhiều thời gian. Mỗi phút trời lại trở nên tối hơn, và mưa bắt đầu thổi xiên từ một bên thành những mảng dày đặc.

Một phúc sau, đuôi lái cuối cùng cũng chạm moóc và chiếc thuyền bắt đầu chuyển hướng…

Chầm chậm… chầm chậm… chiếc thuyền vẫn nghiêng quá mức về một phía.

Nỗi sợ hãi mỗi lúc một tăng, anh nhìn mặt biển dâng lên quanh mình để tạo nên một cồn sóng khổng lồ, gầm thét đang nhằm thẳng vào anh.

Anh sẽ không làm được mất.

Anh chuẩn bị tinh thần cho mình khi nước ập lên phần thân thuyền đưa ra hứng, làm tung lên những đám bọt trắng xóa như lông chim. Happenstance nghiêng hơn nữa và chân Garrett trượt đi, nhưng anh vẫn ghì chặt bánh lái. Anh vừa lóp ngóp đứng thẳng dậy thì một cồn sóng nữa lại ập vào thuyền.

Nước ngập khắp sàn.

Con thuyền vật lộn cố đứng thẳng trước những cơn gió giật mạnh, giờ đây chủ động lấy nước vào. Trong gần một phút nó giội lên sàn thuyền một lực bằng cả một dòng sông đang giận dữ. Rồi những cơn gió đột nhiên dịu đi một lúc, và kỳ diệu thay chiếc Happenstance bắt đầu tự đứng thẳng trở lại, cột buồm nhô lên một chút trên bầu trời đen kịt. Đuôi lái lại chạm nước, Garrett liền xoay bánh lái dữ dội, biết rằng mình phải nhanh chóng quay thuyền lại.

Chớp lại lóe lên. Giờ chỉ còn bảy dặm.

Chiếc đài lạch xạch. “Nhắc lại… bản tin báo bão… gió có thể đạt bốn mươi hải lý… nhắc lại… gió bốn mươi hải lý, đang tăng lên năm mươi…”

Garrett biết là anh đang gặp nguy hiểm. Anh không cách nào kiểm soát được Happenstance trong cơn gió mạnh tới mức đó.

Con thuyền tiếp tục đổi hướng, vật lộn với trọng lượng gia tăng và những cồn sóng dữ dội. Nước dưới chân anh giờ sâu hơn chục phân. Sắp được rồi…

Một cơn gió mạnh đột ngột thổi tới từ hướng ngược lại, chặn hẳn tiến trình của anh và lắc con thuyền như một món đồ chơi. Đúng lúc con thuyền yếu ớt nhất thì một cồn sóng lớn đổ ập xuống thân thuyền. Cột buồm hạ xuống thấp hơn, chỉ thẳng ra biển.

Lần này gió không chịu ngừng.

Mưa lạnh cắt thổi xiên làm anh không nhìn thấy gì. Happenstance, thay vì trở lại đúng tư thế, càng nghiêng thêm, những cánh buồm trĩu nặng vì nước mưa. Garrett lại mất thăng bằng, góc nghiêng của con thuyền chống lại nỗ lực của anh đứng thẳng dậy. Nếu một cồn sóng nữa lại ập tới…

Garrett không hề nhìn thấy nó tới.

Như cú chém của tên đao phủ, con sóng ập mạnh vào thuyền trong hành động kết liễu khủng khiếp, lật chiếc thuyền nghiêng hẳn về một bên, cột buồm và cánh buồm đập xuống mặt nước. Nó thua rồi. Garrett bám chặt bánh lái, biết rằng nếu buông tay, anh sẽ bị cuốn ra biển.

Happenstance bắt đầu hút nước vào nhanh chóng, phập phồng như một con thú lớn đang chìm.

Anh phải tới lấy bộ dụng cụ dùng trong tình trạng khẩn cấp, trong đó có một cái bè - đó là cơ hội duy nhất của anh. Garrett nhích từng chút về phía cửa cabin, bám vào bất cứ thứ gì có thể, chống chọi với cơn mưa mù mịt, chiến đấu vì mạng sống của mình.

Sấm chớp lại ầm vang, gần như cùng lúc.

Cuối cùng anh cũng tới được chỗ cửa sập và tóm lấy tay nắm. Nó không lay chuyển. Tuyệt vọng, anh đặt hai chân vào vị trí để tăng lực bẩy lên và kéo lại lần nữa. Khi nó hé mở ra, nước bắt đầu tràn vào bên trong, và anh chợt nhận ra mình vừa phạm phải một sai lầm khủng khiếp.

Nước biển ào ạt xô tới, nhanh chóng làm tối mờ cả khoang bên trong. Garrett ngay lập tức nhìn thấy bộ dụng cụ - bình thường được cất trong một cái túi vải bạt trên tường - đã chìm trong nước. Cuối cùng anh nhận ra, chẳng còn gì có thể ngăn con thuyền bị đại dương nuốt chửng.

Kinh hoàng, anh vật lộn đóng cửa cabin lại, nhưng dòng nước đang xông tới và thiếu lực bẩy khiến anh không thể. Happenstance bắt đầu chìm nhanh chóng. Trong vài giây nửa thân thuyền đã chìm dưới nước. Đầu óc anh đột nhiên lại lóe lên.

Áo phao…

Chúng được để ở dưới những cái ghế gần đuôi tàu.

Anh nhìn. Chúng vẫn còn ở trên mặt nước.

Nỗ lực điên cuồng, anh với được tới những thanh chắn bên hông thuyền, chỗ bám víu duy nhất còn nổi. Lúc anh nắm được vào đó, nước đã lên tới ngang ngực và chân anh vùng vẫy trong nước biển. Anh tự rủa mình, biết rằng đáng lẽ nên mặc áo phao từ trước.

Nỗ lực điên cuồng, anh với được tới những thanh chắn bên hông thuyền, chỗ bám víu duy nhất còn nổi. Lúc anh nắm được vào đó, nước đã lên tới ngang ngực và chân anh vùng vẫy trong nước biển. Anh tự rủa mình, biết rằng đáng lẽ nên mặc áo phao từ trước.

Lúc này ba phần tư con thuyền đã ở dưới nước, và nó vẫn đang tiếp tục chìm.

Vật lộn để tới được chỗ mấy cái ghế, anh đặt hai bàn tay chồng lên nhau, căng người ra trước sức nặng của những con sóng và những cơ bắp mỏi rã rời của chính anh. Đi được nửa đường, nước biển đã dâng đến cổ anh và cuối cùng anh cũng nhận thức được sự vô vọng của hoàn cảnh.

Anh sẽ không làm được rồi.

Nước dâng lên tới cằm, cuối cùng anh cũng đành bỏ cuộc. Ngước nhìn lên, cơ thể anh rã rời, anh vẫn không chịu tin rằng mình sẽ kết thúc như thế này.

Anh bỏ tay ra khỏi thanh chắn và bắt đầu bơi ra khỏi con thuyền. Chiếc áo khoác và giày của anh trĩu xuống nặng nề trong nước. Anh đạp nước, nhô lên cùng với những cồn nước trong lúc nhìn chiếc Happenstance cuối cùng trượt dần xuống lòng đại dương. Rồi, bắt đầu bị cái lạnh và sự kiệt quệ làm tê liệt cảm giác, anh quay người và bắt đầu chậm chạp, vô vọng bơi vào bờ.

Theresa ngồi với Jeb bên chiếc bàn. Nói liên tục không nghỉ, ông mất một lúc lâu để kể cho cô những gì ông biết.

Sau này, Theresa nhớ lại rằng trong lúc cô nghe câu chuyện của ông, cái cảm giác tò mò còn lớn hơn cả sợ hãi. Cô biết rằng Garrett đã sống sót. Anh là một thủy thủ lão luyện, một tay bơi lội thậm chí còn cừ hơn nữa. Anh quá cẩn trọng, quá nghị lực không thể bị một chuyện như thế đánh bại. Nếu có ai làm được việc ấy thì đó chính là anh.

Cô với bàn tay nắm tay Jeb, bối rối. “Cháu không hiểu… tại sao anh ấy lại lái thuyền đi nếu biết có một cơn bão đang tới?”

“Tôi không biết,” ông nói khẽ. Ông không thể nhìn vào mắt cô.

Theresa nhíu mày, nỗi hoang mang khiến mọi thứ xung quanh cô trở nên không thật. “Anh ấy có nói gì với bác trước khi đi không?”

Jeb lắc đầu. Ông tái mặt, mắt nhìn xuống như thể trốn tránh điều gì. Theresa lơ đãng nhìn quanh bếp. Mọi thứ vẫn gọn gàng, như thể đã được lau chùi trước khi cô tới. Qua cánh cửa phòng ngủ để mở, cô nhìn thấy chiếc chăn bông của Garrett trải gọn gàng trên giường. Kỳ quặc là hai lẵng hoa lớn được đặt bên trên nó.

“Cháu không hiểu - anh ấy vẫn ổn phải không?”

“Theresa,” cuối cùng Jeb nói, những giọt nước mắt đang dâng lên trong mắt ông, “họ đã tìm thấy nó sáng hôm qua.”

“Anh ấy đang ở trong bệnh viện à?”

“Không,” ông nói khẽ.

“Thế thì anh ấy đang ở đâu?” cô hỏi, không chịu thừa nhận điều mà không hiểu sao cô đã biết.

Jeb không trả lời.

Tới lúc này hơi thở của cô đột nhiên trở nên khó khăn. Bắt đầu từ hai bàn tay, cơ thể cô bắt đầu run lên. Garrett! Cô thầm nhủ. Chuyện gì đã xảy ra vậy? Tại sao anh không ở đây? Jeb cúi đầu xuống để cô không thấy những giọt nước mắt của ông, nhưng cô có thể nghe thấy những tiếng hổn hển tắc nghẹn của ông.

“Theresa…” ông nói, giọng nhỏ dần.

“Anh ấy đang ở đâu?” cô gặng hỏi, bật dậy, adrenaline dâng lên điên cuồng trong huyết quản. Cô nghe thấy tiếng ghế chạm sàn loảng xoảng bên dưới như thể từ một nơi rất xa vọng lại.

Jeb ngước lên nhìn cô lặng lẽ. Rồi, bằng một cử chỉ thận trọng, ông gạt nước mắt bằng mu bàn tay. “Họ tìm thấy thi thể nó sáng hôm qua.”

Cô cảm thấy ngực mình thắt lại như bị ngạt thở.

“Nó mất rồi, Theresa.”

Trên bãi biển nơi toàn bộ câu chuyện bắt đầu, Theresa cho phép mình nhớ lại những chuyện từ một năm trước.

Họ đã chôn anh bên cạnh Catherine, trong một nghĩa trang gần nhà anh. Jeb và Theresa đứng cạnh nhau trong tang lễ, vây quanh là những người quen của Garrett - bạn bè từ thời phổ thông, cựu học viên lặn, các nhân viên tại cửa hàng. Đó là một tang lễ đơn giản, và mặc dù trời bắt đầu mưa ngay khi linh mục nói xong, đám đông vẫn ở lại lâu sau khi buổi lễ kết thúc.

Lễ thức canh tổ chức tại nhà Garrett. Từng người một bước vào, bày tỏ lời chia buồn và chia sẻ những ký ức. Khi vài người cuối cùng nối đuôi nhau đi ra, chỉ còn lại Jeb và Theresa, ông lôi một cái hộp từ trong tủ áo ra và bảo cô ngồi xuống bên cạnh, đoạn họ cùng nhau xem.

Trong hộp là hàng trăm bức ảnh. Trong suốt mấy tiếng, cô nhìn thời thơ ấu và niên thiếu của Garrett trải ra - tất cả những phần của cuộc đời anh mà cô mới chỉ được tưởng tượng ra. Rồi ảnh chụp những năm sau này - lễ tốt nghiệp trung học và đại học; con thuyền Happenstance được sửa lại; Garrett đứng trước cửa hàng đã được tu sửa trước khi khai trương. Trong từng bức ảnh, cô nhận ra rằng nụ cười của anh không thay đổi. Mỉm cười với anh, cô thấy rằng hầu hết những bộ quần áo của anh cũng không thay đổi. Trừ phi những bức ảnh được chụp trong một dịp đặc biệt, từ nhỏ đến lớn, có vẻ như anh luôn mặc cùng một kiểu - hoặc quần jean hoặc quần soóc, một chiếc áo sơ mi bình thường, và giày lười không tất.

Có hàng chục bức ảnh của Catherine. Lúc đầu Jeb có vẻ khó xử khi cô nhìn thấy chúng, nhưng lạ thay, chúng không ảnh hưởng gì lắm tới cô. Cô không cảm thấy buồn hay tức giận vì chúng. Chúng đơn giản chỉ là một phần trong quãng đời kia của anh.

Tối hôm đó, khi họ xem qua hết những bức ảnh cuối cùng, cô đã thấy anh chàng Garrett mà cô đem lòng yêu. Riêng một bức ảnh đập vào mắt cô, và cô giơ nó ra trước mặt một lúc lâu. Nhận ra vẻ mặt của cô, Jeb giải thích rằng nó được chụp vào lễ Tưởng niệm, vài tuần trước khi cái chai dạt vào bờ biển Cape Cod. Trong bức ảnh đó, Garrett đứng trên hiên sau, nhìn giống hệt lúc cô tới nhà anh lần đầu tiên.

Cuối cùng, khi cô đã có thể đặt nó xuống, Jeb nhẹ nhàng lấy lại nó từ tay cô.

Sáng hôm sau, ông đưa cho cô một cái bì thư. Mở ra, cô thấy rằng ông đã trả lại nó cho cô, cùng với nhiều tấm khác. Cùng với những bức ảnh là ba lá thư ban đầu đã đưa Theresa và Garrett đến với nhau.

“Tôi nghĩ là nó muốn cô giữ những thứ này.”

Nghẹn ngào không thể trả lời, cô gật đầu và lặng lẽ cảm ơn.

Theresa không thể nhớ nhiều về mấy ngày đầu khi trở lại Boston, và trong hồi tưởng cô biết rằng cô không thật sự muốn vậy. Cô nhớ rằng Deanna đợi cô ở sân bay Logan khi máy bay hạ cánh. Vừa nhìn thấy cô, Deanna gọi cho chồng bà ngay lập tức, sai ông mang vài bộ quần áo tới nhà Theresa vì bà định ở lại với cô vài ngày. Theresa dành phần lớn thời gian nằm trên giường, thậm chí không buồn dậy khi Kevin đi học về.

“Liệu mẹ cháu có bao giờ bình thường trở lại không?” Kevin hỏi.

“Mẹ cháu cần một chút thời gian thôi, Kevin ạ,” Deanna đáp. “Bà biết là chuyện này cũng khó khăn với cả cháu nữa, nhưng rồi sẽ ổn thôi.”

Những giấc mơ của Theresa, khi cô có thể nhớ lại, rời rạc và vô phương hướng. Ngạc nhiên là Garrett không hề xuất hiện trong đó. Cô không biết liệu đó có phải là một kiểu điềm báo hay thậm chí liệu cô có nên gán cho nó một ý nghĩa nào đó không. Trong cơn mụ mị, cô thấy thật khó có thể nghĩ về bất cứ điều gì một cách rõ ràng, cô bèn đi ngủ sớm và cứ nằm đó, cuộn lại như cái kén trong bóng tối êm dịu càng lâu càng tốt.

Thỉnh thoảng, khi thức giấc, trong chớp mắt cô trải qua một trạng thái không thực khó hiểu khi toàn bộ câu chuyện dường như là một sai lầm khủng khiếp, quá phi lý không thể thật sự xảy ra. Trong khoảnh khắc đó, mọi chuyện diễn ra như đáng phải là như vậy. Cô thấy mình căng người ra lắng nghe tiếng Garrett trong căn hộ, chắc chắn rằng chiếc giường trống chỉ có nghĩa là anh đã vào bếp, uống cà phê và đọc báo. Một lát nữa cô sẽ ra bàn nhập cuộc với anh và lắc đầu: Em vừa có giấc mơ khủng khiếp…

Hồi ức khác duy nhất về tuần lễ đó của cô là nỗi mong muốn thường trực có thể hiểu được làm sao mà chuyện đó lại xảy ra. Trước khi rời Wilmington, cô đã đề nghị Jeb hứa sẽ gọi cho cô nếu ông biết được bất cứ chuyện gì về hôm Garrett ra khơi trên chiếc thuyền Happenstance. Trong nỗi khao khát tò mò muốn biết được lý do, cô tin rằng việc hiểu được tường tận - tại sao - thế nào đó sẽ làm vợi bớt nỗi đau của cô. Điều mà cô không chịu tin là Garrett lái thuyền đi vào cơn bão mà không định quay trở lại. Mỗi khi điện thoại đổ chuông, hy vọng của cô lại trỗi dậy với nỗi mong ngóng được nghe thấy giọng của Jeb. “Cháu hiểu,” cô tưởng tượng mình đang nói. “Vâng… cháu hiểu. Chuyện đó thì hợp lý hơn…”

Đương nhiên, trong thâm tâm, cô biết rằng chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra. Tuần đó Jeb không gọi để giải thích, câu trả lời cũng không đến với cô trong lúc ngẫm nghĩ. Không, cuối cùng câu trả lời tới từ một nơi mà cô không ngờ.

Trên bãi biển tại Cape Cod, một năm sau, cô không còn chua chát khi ngẫm nghĩ về bước ngoặt bất ngờ đã dẫn cô tới nơi này. Rốt cuộc khi đã sẵn sàng, Theresa thò tay vào túi. Sau khi lấy ra cái vật mà cô đã mang theo, cô nhìn nó, nhớ lại thời điểm mà câu trả lời cuối cùng cũng tới. Không giống như ký ức của cô về những ngày sau khi trở lại Boston, ký ức này vẫn rõ mồn một.

Sau khi Deanna về, Theresa đã cố gắng lập lại lề thói hằng ngày. Trong cơn bối rối suốt tuần trước đó, cô đã phớt lờ những khía cạnh của cuộc sống dù sao vẫn tiếp diễn. Trong lúc Deanna giúp chăm sóc Kevin và trông nom nhà cửa, cô chỉ xếp những lá thư chất đống ở góc phòng ăn. Một tối nọ sau khi ăn xong, trong lúc Kevin đi xem phim, Theresa bắt đầu lơ đãng giở xem đống thư.

Có vài chục lá thư, ba quyển tạp chí và hai gói đồ. Một gói cô nhận ra là món đồ mà cô đã đặt mua từ một catalô làm quà sinh nhật cho Kevin. Tuy nhiên, gói thứ hai được bọc trong một tờ giấy màu nâu đơn sơ không đề địa chỉ người gửi.

Gói thứ hai này dài và hình chữ nhật, quấn thêm băng dính. Có hai cái nhãn dính đề “Dễ vỡ” - một gần địa chỉ và một ở mặt đối diện trên cái hộp - và một cái nhãn khác đề “Xin nhẹ tay”. Tò mò, cô quyết định mở nó ra trước.

Ngay lúc đó cô nhìn thấy dấu bưu điện của Wilmington, Bắc Carolina, ngày gửi từ hai tuần trước. Cô liếc nhanh tìm địa chỉ viết nguệch ngoạc ở mặt trước.

Đó là chữ viết tay của Garrett.

“Không…” Cô đặt gói bưu phẩm xuống, ruột gan đột nhiên thắt lại.

Cô tìm được một cái kéo trong ngăn kéo và bắt đầu run rẩy cắt băng dính, kéo lớp giấy ra một cách cẩn trọng khi làm vậy. Cô đã biết cái mà cô sẽ thấy bên trong.

Sau khi cầm vật đó lên và kiểm tra phần còn lại để chắc chắn là không bỏ xót thứ gì bên trong, cô cẩn trọng nới lỏng lớp bao gói xốp hơi. Nó được dán chặt ở đầu và đáy, và cô buộc phải dùng đến kéo lần nữa. Cuối cùng, sau khi đã cạy được những mẩu còn lại, cô đặt vật đó lên bàn và nhìn nó một lúc lâu, không thể nhúc nhích. Khi cầm nó lên trong ánh sáng rõ ràng hơn, cô thấy hình ảnh phản chiếu của mình trong đó.

Cái chai được gắn nút bần, và lá thư cuộn trong đó dựng đứng. Sau khi tháo nút bần ra - anh chỉ đóng nút lỏng thôi - cô dốc ngược nó lên, và lá thư dễ dàng tụt ra. Giống như lá thư cô đã nhặt được vài tháng trước, nó được quấn bằng chỉ. Cô cẩn thận gỡ chỉ ra để khỏi làm rách thư.

Cái chai được gắn nút bần, và lá thư cuộn trong đó dựng đứng. Sau khi tháo nút bần ra - anh chỉ đóng nút lỏng thôi - cô dốc ngược nó lên, và lá thư dễ dàng tụt ra. Giống như lá thư cô đã nhặt được vài tháng trước, nó được quấn bằng chỉ. Cô cẩn thận gỡ chỉ ra để khỏi làm rách thư.

Nó được viết bằng bút máy. Ở góc trên cùng bên phải là hình một chiếc thuyền cũ, những cánh buồm cuồn cuộn trong gió.

Theresa thân yêu,

Em có thể tha thứ cho anh không?

Cô đặt lá thư lên bàn. Cổ họng nhức nhối khiến thở thật khó khăn. Ánh sáng trên đầu cô chiếu thành lăng kính trên những giọt nước mắt cứ tự động tuôn rơi. Cô với lấy cái khăn giấy lau mắt. Trấn tĩnh lại, cô bắt đầu đọc.

Em có thể tha thứ cho anh không?

Trong một thế giới mà anh hiếm khi hiểu được, có những cơn gió của số phận thổi vào lúc ta ít ngờ đến nhất. Đôi khi chúng thổi với nỗi giận dữ của một cơn bão, đôi khi chúng chỉ hiu hiu lướt qua má ta. Nhưng cơn gió không thể chối từ ấy đem đến một tương lai không thể làm ngơ như chúng vẫn thường làm. Em, người yêu của anh, là cơn gió mà anh đã không hề ngờ tới, cơn gió thổi mạnh hơn mức anh có thể tưởng tượng ra được. Em là số phận của anh.

Anh đã sai, quá sai khi phớt lờ những gì đã quá rõ rệt, và anh cầu xin em tha thứ. Giống như một lữ khách cẩn trọng, anh cố gắng bảo vệ mình khỏi cơn gió đó nhưng thay vì thế lại để mất linh hồn. Anh thật ngốc khi làm ngơ số phận của mình, nhưng ngay cả kẻ ngốc cũng có cảm xúc, và anh đã nhận ra rằng em là điều quan trọng nhất mà anh có trên đời.

Anh biết là anh không hoàn hảo. Anh đã phạm phải nhiều sai lầm trong mấy tháng qua hơn người khác phạm phải trong cả cuộc đời. Anh đã sai khi hành động như vậy khi anh tìm thấy những lá thư, cũng như anh đã sai khi giấu đi sự thật về những gì anh đã trải qua trong quá khứ. Khi anh đuổi theo chiếc xe của em ra phố và rồi lại nhìn em rời khỏi sân bay, anh biết lẽ ra anh phải cố gắng hơn nữa để ngăn em lại. Nhưng trên hết, anh đã sai khi phủ nhận điều đã rõ ràng trong trái tim anh: anh không thể đi tiếp nếu không có em.

Em đã đúng về mọi chuyện. Lúc chúng ta ngồi trong bếp, anh đã cố phủ nhận những điều em nói, mặc dù anh biết là đúng. Giống như một người chỉ ngoái nhìn lại đằng sau trên chuyến đi dọc đất nước, anh đã không để ý đến những gì ở phía trước. Anh đã bỏ lỡ vẻ đẹp của một buổi bình minh đang tới, sự kỳ diệu của dự cảm khiến cho cuộc đời đáng giá. Anh đã sai khi làm như vậy, nó là sản phẩm của sự lầm lẫn trong anh, và anh ước ao mình hiểu ra điều đó sớm hơn.

Nhưng, giờ đây, khi cặp mắt anh chỉ hướng đến tương lại, anh nhìn thấy gương mặt em và nghe thấy giọng nói của em, chắc chắn đây là con đường mà anh sẽ phải đi theo. Mong ước thẳm sâu nhất của anh là em cho anh thêm một cơ hội nữa. Có thể em đã đoán ra, anh hy vọng rằng chiếc chai này sẽ thực hiện được phép màu của nó, như nó đã làm trước đây, và bằng cách nào đó sẽ đưa chúng ta trở lại bên nhau.

Vài ngày sau khi em đi, anh đã muốn tin rằng mình có thể sống tiếp như đã từng như vậy. Nhưng anh không thể. Mỗi lần ngắm mặt trời lặn, anh lại nghĩ tới em. Mỗi lần qua chỗ điện thoại, anh lại khao khát muốn gọi. Ngay cả khi đi thuyền ra biển, anh cũng chỉ có thể nghĩ tới em và những khoảng thời gian tuyệt vời chúng ta đã có. Trong thâm tâm anh biết rằng cuộc đời anh sẽ không bao giờ trở lại như xưa. Anh muốn em quay lại, hơn cả anh có từng tưởng tượng, nhưng mỗi khi hình dung ra em, anh lại nghe thấy những lời em nói trong cuộc trò chuyện cuối cùng của chúng ta. Dù yêu em đến mấy, anh vẫn biết rằng sẽ không thể trừ phi chúng ta - cả hai ta - đều chắc chắn rằng anh sẽ hoàn toàn dấn thân vào con đường phía trước. Anh liên tục cảm thấy băn khoăn bởi những suy nghĩ đó, cho đến tận khuya hôm qua thì câu trả lời cuối cùng cũng đến với anh. Hy vọng rằng, sau khi anh nói với em về điều này, nó sẽ có ý nghĩa với em nhiều như với anh.

Trong giấc mơ, anh thấy mình đứng trên biển với Catherine, tại nơi mà anh đã đưa em tới sau bữa ăn trưa của chúng ta ở nhà hàng Hank. Biển rực rỡ dưới ánh mặt trời, những tia nắng phản chiếu lấp lánh trên cát. Khi bọn anh bước đi bên nhau, cô ấy chăm chú lắng nghe khi anh kể về em, về chúng ta, về những khoảng thời gian tuyệt vời chúng ta đã chia sẻ với nhau. Cuối cùng, sau một thoáng do dự, anh thú nhận rằng anh đã yêu em, nhưng anh cảm thấy có lỗi vì điều đó. Cô ấy không nói gì ngay lúc đó, mà chỉ bước đi, cuối cùng cô ấy quay về phía anh và hỏi, “Tại sao?”

“Vì em.”

Khi nghe câu trả lời của anh, cô ấy mỉm cười với vẻ thích thù nhẫn nại, cái kiểu của cô ấy trước khi cô ấy qua đời. “Ôi, Garrett,” cuối cùng cô ấy vừa nói vừa nhẹ nhàng chạm vào anh, “thế anh nghĩ là ai đã đưa chiếc chai đó đến với cô ấy nào?”

Theresa ngừng đọc. Tiếng o o yếu ớt của cái tủ lạnh dường như lặp lại những lời trong thư:

Thế anh nghĩ là ai đã đưa chiếc chai đó đến với cô ấy nào?

Ngả người ra sau ghế, cô nhắm mắt lại, cố ngăn nước mắt.

“Garrett,” cô thì thầm, “Garrett…” Bên ngoài cửa sổ, cô nghe thấy tiếng xe ô tô chạy qua. Cô lại bắt đầu chậm rãi đọc tiếp.

Tỉnh dậy, anh cảm thấy trống vắng và cô độc. Giấc mơ không làm anh khuây khỏa. Trái lại, nó khiến lòng anh nhói đau vì những gì anh đã làm với chúng ta, và anh bắt đầu khóc. Cuối cùng, khi đã bình tĩnh lại, anh biết mình phải làm gì. Tay run rẩy, anh đã viết hai lá thư: một em đang cầm trên tay ngay lúc này, và một cho Catherine, trong đó cuối cùng anh đã nói lời tạm biệt. Hôm nay, anh sẽ đưa con thuyền Happenstance ra biển để gửi nó tới cho cô ấy, như anh đã làm với tất cả những lá thư khác. Nó sẽ là lá thư cuối cùng của anh - Catherine, theo cách riêng của cô ấy, đã bảo anh sống tiếp, và anh đã chọn lắng nghe. Không chỉ những lời nói của cô ấy mà còn cả những chiều hướng của trái tim anh đã đưa đường dẫn lối cho anh trở lại với em.

Ôi, Theresa, anh xin lỗi, vô cùng xin lỗi, anh đã làm em tổn thương. Tuần sau anh sẽ tới Boston với hy vọng bằng cách nào đó em sẽ tha thứ cho anh. Có lẽ giờ đã quá muộn màng. Anh cũng không biết nữa.

Theresa, anh yêu và mãi mãi yêu em. Anh đã mệt mỏi vì cô đơn. Anh nhìn thấy những đứa bé khóc rồi cười khi chúng chơi trên cát, và anh nhận ra rằng anh muốn có những đứa con với em. Anh muốn nhìn Kevin lớn lên thành một người đàn ông. Anh muốn ôm em trong tay và nhìn em khóc khi cuối cùng nó cũng lấy vợ, anh muốn hôn em khi những ước mơ của nó trở thành sự thật. Anh sẽ chuyển tới Boston nếu em yêu cầu anh vì anh không thể tiếp tục sống theo cách này. Anh chán nản và buồn bã khi không có em. Ngồi trong căn bếp này, anh đang cầu nguyện rằng em sẽ để cho anh được trở lại bên em, lần này và mãi mãi.

Garrett

Lúc này trời đã nhá nhem, và bầu trời xám xịt đang nhanh chóng chuyển thành tối sẫm. Mặc dù cô đã đọc lá thư đó hàng nghìn lần, nhưng nó vẫn khơi lên những cảm xúc y như khi cô đọc nó lần đầu tiên vậy. Trong suốt một năm qua, những cảm xúc đó cứ bám theo cô trong từng khoảnh khắc tỉnh thức.

Ngồi trên bãi biển, cô cố gắng tưởng tượng ra anh khi viết lá thư này một lần nữa. Cô lướt ngón tay theo những dòng chữ, nhẹ nhàng lần theo trang giấy, biết rằng bàn tay anh đã từng ở đó. Cố kìm nước mắt, cô nghiền ngẫm bức thư, như vẫn làm sau khi đọc nó. Cô thấy có mấy vết nhòe, như thể chiếc bút đã rỉ mực một chút trong khi anh viết; nó khiến lá thư có một vẻ đặc trưng, gần như là vội vã. Sáu từ đã được gạch đi, và cô nhìn những từ đó thật kỹ, tự hỏi anh đã định nói điều gì. Giống như nhiều điều về ngày cuối cùng của anh, nó là một bí mật mà anh đã mang theo. Cô nhận thấy tới cuối trang thư nét chữ của anh rất khó đọc, như thể anh đang cầm bút rất chặt.

Đọc xong, cô cuộn lá thư lại và cẩn thận quấn sợi chỉ quanh nó, giữ gìn sao cho nó luôn luôn trông như cũ. Cô cất nó vào trong chiếc chai và đặt sang một bên, cạnh chiếc túi. Cô biết rằng khi trở về nhà, cô sẽ đặt nó lên bàn làm việc của mình, cô vẫn luôn cất giữ nó ở đó. Đêm đến, khi ánh đèn đường hắt vào phòng cô, cái chai lập lòe trong bóng tối và vẫn luôn luôn là vật cuối cùng cô nhìn tới trước khi chìm vào giấc ngủ.

Đoạn, cô lấy những bức ảnh Jeb đưa cho. Cô nhớ rằng sau khi trở về từ Boston, cô đã xem xét từng cái một. Đến khi tay bắt đầu run lên, cô đặt chúng trở lại ngăn kéo và không bao giờ nhìn lại nữa.

Nhưng giờ thì cô đang giở xem, tìm bức ảnh chụp ở hiên sau. Giơ nó ra trước mặt, cô nhớ lại mọi điều ở anh - cách anh nhìn, cách anh đi đứng, nụ cười dễ gần của anh, những nếp nhăn ở khóe mắt anh. Cô tự nhủ, có lẽ ngày mai cô sẽ lấy âm bản lại và in một tấm khác, cỡ 20x25 cm để có thể đặt trên kệ đầu giường, y như anh đã đặt ảnh Catherine vậy. Rồi cô cười buồn bã, nhận ra rằng đến tận bây giờ mình vẫn không hoàn thành được việc đó. Những bức ảnh sẽ trở lại ngăn kéo như lúc trước, dưới những đôi tất và bên cạnh đôi hoa tai ngọc trai mà bà cô đã tặng. Ngày nào cũng nhìn thấy khuôn mặt anh thì đau đớn quá, mà cô vẫn chưa sẵn sàng cho việc đó.

Từ sau đám tang, cô vẫn giữ liên lạc với Jeb nhưng không thường xuyên lắm, chỉ thỉnh thoảng gọi để biết ông thế nào. Lần đầu tiên gọi đến, cô giải thích với ông rằng mình đã phát hiện ra lý do Garrett đưa chiếc Happenstance ra khơi ngày hôm đó, và rốt cuộc thì cả hai cùng khóc trên điện thoại. Tuy nhiên, vài tháng trôi qua, cuối cùng họ đã có thể nhắc đến tên anh mà không rơi nước mắt nữa, và Jeb lại bắt đầu kể những kỷ niệm về Garrett hồi còn bé hoặc nhắc đi nhắc lại với Theresa những điều anh từng nói về cô trong những khoảng thời gian dài họ ở xa nhau.

Vào tháng Bảy, Theresa và Kevin bay tới Florida và đi lặn có bình dưỡng khí ở Keys. Nước ở đó, như ở Bắc Carolina, rất ấm, mặc dù trong hơn nhiều. Họ ở đó tám ngày, sáng nào cũng đi lặn, buổi chiều thì thư giãn trên bãi biển. Trên đường trở về Boston, hai mẹ con quyết định năm sau sẽ lại đi như vậy. Vào ngày sinh nhật của Kevin, thằng bé xin mẹ đặt mua dài hạn một tạp chí về môn lặn. Trớ trêu thay, số đầu tiên lại đăng tải câu chuyện về những vụ chìm tàu ở gần bờ biển Bắc Carolina, bao gồm cả vụ ở vùng nước nông mà họ đã tới thăm với Garrett.

Mặc dù cũng có người đề nghị nhưng cô chưa hề hẹn hò với ai kể từ khi Garrett mất. Những người ở tòa báo, trừ Deanna, cứ cố mai mối cho cô với đủ kiểu đàn ông. Tất cả đều được miêu tả là đẹp trai và có thể lấy làm chồng, nhưng cô lịch sự từ chối mọi lời mời mọc. Thỉnh thoảng cô lại nghe lỏm được các đồng nghiệp to nhỏ: “Tôi không hiểu tại sao chị ấy lại bỏ cuộc,” hoặc, “Chị ấy vẫn còn trẻ đẹp thế cơ mà.” Những người khác, hiểu biết hơn, chỉ nhận xét rằng đến lúc nào đó, cô cũng sẽ hồi phục.

Chính cuộc gọi của Jeb ba tuần trước đã đưa cô trở lại Cape Cod. Khi cô nghe thấy giọng nói dịu dàng của ông, khẽ khàng gợi ý rằng đã đến lúc sống tiếp, những bức tường cô đã dựng lên cuối cùng cũng bắt đầu sụp đổ. Cô khóc gần như suốt đêm, nhưng sáng hôm sau cô đã biết mình phải làm gì. Cô sắp xếp mọi thứ để trở lại đây - khá dễ dàng, vì giờ không phải là mùa cao điểm. Và sau đó công cuộc hàn gắn vết thương cuối cùng cũng bắt đầu.

Khi đứng trên bãi biển, cô tự hỏi liệu có ai nhìn thấy cô không. Cô liếc nhìn hết bên này tới bên kia, nhưng vắng ngắt. Xem ra chỉ có biển là động, và cô bị cuốn hút bởi cơn giận của nó. Mặt nước trông giận dữ và nguy hiểm: nó không phải là nơi lãng mạn như cô vẫn nhớ. Cô ngắm nhìn nó một lúc lâu, nghĩ về Garrett, cho đến khi cô nghe thấy tiếng sấm rền vang vọng khắp bầu trời mùa đông.

Gió mạnh lên, và cô cảm thấy tâm trí mình cuốn đi theo gió. Cô tự hỏi, tại sao nó lại kết thúc theo cách đó? Cô không biết nữa. Một cơn gió mạnh khác thổi tới và cô cảm thấy anh đang đứng cạnh cô, gạt tóc khỏi mặt cô. Anh đã làm thế khi họ từ biệt nhau, và cô lại cảm thấy cái động chạm của anh một lần nữa. Có quá nhiều điều cô ước mình có thể thay đổi trong ngày hôm đó, quá nhiều hối tiếc…

Giờ đây, đối diện với lòng mình, cô yêu anh. Cô vẫn luôn yêu anh. Cô đã biết điều đó ngay từ khi nhìn thấy anh ở bên thuyền, và giờ cô vẫn biết. Bất luận thời gian trôi đi và anh đã chết, cảm giác của cô cũng không thể thay đổi. Cô nhắm mắt lại, thì thầm với anh như cô đã từng làm.

“Em nhớ anh, Garrett Blake,” cô nói dịu dàng. Và trong một lúc, không hiểu sao cô tưởng tượng ra anh nghe thấy cô nói, vì gió chợt im và không khí trở nên tĩnh lặng.

Vài hạt mưa đầu tiên bắt đầu rơi xuống vào lúc cô mở nút cái chai trong suốt đơn giản mà cô đang nắm chặt, lấy lá thư cô viết cho anh hôm qua, lá thư cô tới đây để gửi. Cô mở nó ra rồi giơ lên trước mặt, y như khi cô giơ lá thư đầu tiên mà cô tìm thấy lên. Chút ánh sáng ít ỏi còn sót lại hầu như không đủ để cô nhìn thấy những dòng chữ, nhưng cô cũng đã thuộc lòng nó rồi. Tay cô run run khi cô bắt đầu đọc.

Tình yêu của em,

Một năm đã trôi qua kể từ khi em ngồi cùng bố anh trong căn bếp. Đêm đã khuya và mặc dù những lời lẽ đến với em thật khó khăn nhưng em không thể trốn được cái cảm giác rằng cuối cùng cũng đã đến lúc em trả lời câu hỏi của anh.

Đương nhiên là em tha thứ cho anh. Giờ đây em tha thứ cho anh và em đã tha thứ từ lúc em đọc được lá thư của anh. Từ sâu thẳm, em không có lựa chọn nào khác. Rời bỏ anh một lần đã đủ khó khăn lắm rồi; lặp lại điều đó lần thứ hai quả là không thể. Em yêu anh quá nhiều để có thể lại để anh ra đi. Mặc dù em vẫn đau đớn về những gì lẽ ra đã có thể có, nhưng em vẫn thấy biết ơn vì anh đã bước vào cuộc đời em dù rằng ngắn ngủi. Lúc đầu, em đã cho rằng vì lý do nào đó mà chúng ta được đưa đến với nhau để giúp anh vượt qua thời gian đau khổ. Nhưng giờ đây, sau một năm, em đã tin vào điều ngược lại.

Trớ trêu thay, em đang ở đúng vị trí của anh vào lần đầu chúng ta gặp nhau. Khi em viết, em phải vật lộn với bóng ma của người mà em yêu và đã mất. Giờ thì em thấu hiểu hơn về những khó khăn anh đã trải qua, và em nhận ra rằng anh hẳn đã đau khổ đến mức nào khi phải bước tiếp. Đôi khi nỗi đau đớn nhấn chìm em, và mặc dù em hiểu rằng chúng ta sẽ không bao giờ còn gặp lại nhau, nhưng vẫn có một phần nào đó trong em muốn gắn chặt với anh mãi mãi. Làm vậy thật dễ dàng cho em vì yêu một ai đó khác có thể giảm bớt những ký ức của em về anh. Phải, đây là một nghịch lý: mặc dù em nhớ anh khôn xiết, nhưng chính vì anh mà em không khiếp sợ tương lai. Vì anh có thể yêu em, anh đã cho em hy vọng, tình yêu của em. Anh dạy em rằng hoàn toàn có thể đi tiếp trong cuộc đời, dù người ta có đau khổ đến đâu. Và bằng cách riêng của mình, anh đã khiến em tin rằng tình yêu đích thực không thể bị phủ nhận.

Giờ đây, em không nghĩ là em đã sẵn sàng, nhưng đây là lựa chọn của em. Chớ tự trách mình. Vì anh, em hy vọng sẽ có một ngày nỗi buồn của em được thay thế bởi điều gì đó tươi đẹp. Vì anh, em có sức mạnh để đi tiếp.

Em không biết liệu những linh hồn có thật sự rong chơi trên cõi đời không, nhưng nếu quả thật là vậy thì em sẽ cảm nhận được sự hiện diện của anh ở khắp mọi nơi. Khi em lắng nghe âm thanh của biển thì đó sẽ là những lời thì thầm của anh; khi em nhìn hoàng hôn chói lòa, đó sẽ là hình ảnh của anh trên bầu trời. Anh sẽ không ra đi mãi mãi, dù cho có ai bước vào cuộc đời em. Anh sẽ đứng cùng với Chúa, kề bên linh hồn em, dẫn em bước vào một tương lai mà em không thể biết trước.

Đây không phải lời từ biệt, tình yêu của em ạ, đây là lời cảm ơn. Cảm ơn anh vì đã bước vào đời em và đem lại niềm vui cho em, cảm ơn anh vì đã yêu em và đón nhận tình yêu của em. Cảm ơn anh vì những kỷ niệm mà em sẽ giữ mãi trong lòng. Nhưng trên hết thảy, cảm ơn anh vì đã cho em thấy cuối cùng sẽ đến lúc em có thể để anh đi.

Em yêu anh,

T

Đọc xong lá thư lần cuối, Theresa cuộn nó lại đút vào chai, bịt kín. Cô lật đi lật lại mấy lần, biết rằng hành trình của mình đã tới điểm chót. Cuối cùng, biết rằng không thể đợi lâu hơn nữa, cô vận hết sức ném nó ra xa hết sức mình.

Đúng lúc đó, một cơn gió mạnh nổi lên và sương mù bắt đầu tản ra. Theresa đứng lặng nhìn đăm đăm theo chiếc chai khi nó bắt đầu trôi ra biển. Và dù biết là không thể, cô vẫn tưởng tượng rằng chiếc chai sẽ không bao giờ dạt vào bờ. Nó sẽ mãi mãi chu du khắp thế giới, trôi tới những nơi xa xôi mà chính cô không bao giờ thấy được.

Vài phút sau, khi chiếc chai biến mất khỏi tầm mắt, cô quay ra xe. Bước đi lặng lẽ dưới mưa, Theresa khẽ mỉm cười. Cô không biết khi nào hoặc ở đâu thì nó sẽ tới bờ, nhưng điều đó không quan trọng. Không hiểu sao cô biết rằng Garrett sẽ đọc được lá thư.
Chương trước
Loading...