Suối Nguồn (The Fountainhead)

Phần 3 - Chương 02 A



II.

"Sao em lại không đeo chiếc vòng ngọc lục bảo?" Peter Keating hỏi, "Tất cả mọi người đều nhìn chằm chằm vào chiếc vòng sa-phia mà vợ chưa cưới của lão Gordon Prescott đeo."

"Em xin lỗi, Peter. Lần sau em sẽ đeo nó", Dominique nói.

"Bữa tiệc thật vui. Em có được vui không?"

"Em luôn luôn vui."

"Anh cũng thế... Chỉ có điều... Lạy Chúa, em có muốn biết sự thật không?"

"Không."

"Dominique, anh phát ngấy. Vincent Knowlton là một kẻ chán ngấy. Một tên hợm hĩnh. Anh không thể chịu được hắn." Anh nói thêm, vẻ lo lắng. "Nhưng anh không để lộ ra đấy chứ?"

"Không, anh cư xử rất hoàn hảo. Anh cười trước các câu pha trò của anh ta, ngay cả khi không có ai cười."

"Ồ, em nhận ra à? Mánh đấy luôn hiệu quả."

"Có, em có nhận ra."

"Em nghĩ là anh không nên làm thế phải không?"

"Em không nói thế."

"Em nghĩ là nó... bần tiện, đúng không."

"Em không nghĩ điều gì là bần tiện cả."

Anh gục đầu sâu hơn trong chiếc ghế bành; tư thế dó làm cằm của anh ép vào ngực một cách khó chịu, nhưng anh không muốn thay đổi tư thế. Ngọn lửa kêu lách cách trong lò sưởi phòng khách. Anh đã tắt hết các đèn, ngoại trừ cây đèn cầy có bóng màu vàng lụa, nhưng ánh sáng trong phòng không tạo ra không khí thư giãn thân mật, mà chỉ làm cho căn phòng thêm xa lạ, như thể một căn hộ bỏ không, bị tắt hết đèn đuốc.

Dominique ngồi ở đầu kia của căn phòng. Tấm thân mảnh dẻ của cô ngoan ngoãn nép vào đường viền của chiếc ghế có lưng thẳng. Trông cô không cứng nhắc, nhưng cô quá tự chủ để có thể coi là đang thư giãn. Chỉ có hai người trong phòng, nhưng cô ngồi như một mệnh phụ phu nhân đang ngồi ở một buổi chiêu đãi công cộng; như một ma-nơ-canh đứng trong một cửa kính ngoài đường - và cửa kính lại ở ngay một ngã tư đông đúc. Họ vừa về nhà từ bữa tiệc trà tại nhà Vincent Knowlton, một anh chàng trẻ tuổi, mới nổi lên trong giới thượng lưu và là người bạn mới của Keating. Họ đã có bữa tối yên tĩnh với nhau, và giờ đây họ rảnh rỗi cả buổi tối. Không còn buổi tiếp tân nào, cho tới ngày hôm sau.

"Lẽ ra em không nên cười khi nói chuyện lý thuyết thần bí với bà Marsh", anh nói. "Bà ấy tin chuyện đó mà."

"Em xin lỗi. Em sẽ cẩn thận hơn."

Anh chờ cô mở đầu một cuộc nói chuyện. Cô không nói gì. Anh đột nhiên nghĩ là chưa bao giờ cô mở lời với anh trước - trong suốt hai mươi tháng họ lấy nhau. Anh tự nhủ rằng điều đó thật vớ vẩn và phi lý, anh cố nhớ lại một dịp nào đó cô gợi chuyện với anh. Chắc chắn là có, anh nhớ là cô đã hỏi anh "Tối nay sẽ về nhà lúc mấy giờ?" hay "Anh có muốn mời nhà Dixon vào bữa tối hôm thứ Ba không" và những câu tương tự.

Anh liếc nhìn cô. Trông cô không có vẻ buồn chán, cũng chẳng có vẻ muốn tảng lờ anh. Cô ngồi đó, tỉnh táo và sẵn sàng, như thể sự có mặt của anh choán hết mọi quan tâm của cô; cô không với tay lấy sách, cô cũng không mơ màng theo đuổi một ý nghĩ riêng nào đó. Cô nhìn thẳng vào anh - chứ không nhìn lướt qua anh- như thể cô đang chờ đợi một cuộc nói chuyện.

Anh nhận thấy cô luôn nhìn thẳng vào anh, đúng như thế này; và anh tự hỏi không biết anh có thích việc đó không. Có, anh có thích, nó cho phép anh không có lý do nào để ghen tuông, ngay cả với những ý nghĩ thầm kín của cô. Không, anh không thích, không hoàn toàn thích, nó không để lại một lối thoát nào, cho cả anh và cô.

"Anh vừa đọc xong cuốn Viên sỏi mật dũng cảm", anh nói "Một cuốn sách xuất sắc. Sản phẩm của một bộ não xuất chúng, một anh chàng Puck với nước mắt chảy ròng ròng trên mặt,[106] một gã hề có trái tim vàng đang nắm giữ ngai vàng của Thượng đế trong giây lát."

"Em cũng đọc bài điểm sách ấy. Trên tờ Ngọn cờ hôm Chủ nhật."

"Anh đã đọc cả cuốn sách đó. Em biết là anh đã đọc mà."

"Anh thật là tốt."

"Sao cơ?" Anh nghe thấy sự tán đồng trong giọng cô và cảm thấy hài lòng.

"Như thế là chu đáo với tác giả. Em chắc chắn là bà ấy muốn mọi người đọc sách của bà ấy. Thế nên thật tốt khi anh bỏ thời gian ra đọc - nhất là khi anh đã biết trước anh sẽ nghĩ gì về nó."

"Anh không hề biết trước. Có điều, thật tình cờ là anh lại đồng ý với người điểm sách."

"Tờ Ngọn cờ có những người điểm sách giỏi nhất."

"Đúng vậy. Tất nhiên. Thế nên chẳng có gì sai trái khi đồng tình với họ phải không?"

"Chẳng có gì sai cả. Em luôn luôn đồng ý."

"Với ai?"

"Với tất cả mọi người."

"Em đang nhạo báng anh đấy à?"

"Anh có cho em lý do nào để nhạo báng không?"

"Không. Anh không. Không, tất nhiên là không."

"Không. Anh không. Không, tất nhiên là không."

"Thế thì em không nhạo báng anh."

Anh chờ đợi. Anh lắng nghe tiếng xe tải rú lên ở đường phố phía dưới. Tiếng động đó giúp lấp đi vài giây đồng hồ, nhưng khi nó lắng xuống, anh lại phải tiếp tục nói:

"Dominique, anh muốn biết em nghĩ gì."

"Về cái gì cơ?"

"Về... về..." Anh tìm kiếm một chủ đề quan trọng và kết thúc bằng: "... về Vincent Knowlton."

"Em nghĩ anh ta là người xứng đáng được người khác liếm mông."

"Lạy Chúa, Dominique!"

"Em xin lỗi. Em đã dùng từ thô tục và cư xử không hay. Rõ là em sai rồi. Được rồi, để xem nào: Vincent Knowlton là người dễ chịu. Các gia đình dòng dõi cần phải được châm chước và chúng ta cần phải khoan dung với quan điểm của những người khác, bởi vì khoan dung là một phẩm chất tuyệt vời, và do đó sẽ là bất công khi anh áp đặt quan điểm của anh lên Vincent Knowlton, và nếu như anh để choa ta tin những điều anh ta muốn tin thì rồi anh ta cũng sẽ sẵn lòng để anh tin những điều anh muốn tin, bởi vì anh ta là một người rất có lòng nhân."

"Nào, thế mới phải chứ", Keating nói; anh cảm thấy thoải mái với thứ ngôn ngữ quen thuộc.

"Anh nghĩ khoan dung là rất quan trọng, bởi vì..." Anh dừng lại. Anh kết thúc, bằng một giọng trống rỗng "Em đã nói y hệt như thế trước đây."

"Anh nhận ra à," cô nói. Cô nói mà không phải để hỏi, một cách thờ ơ, như thể là một chuyện đương nhiên. Đó không phải là sự châm biếm - thà như vậy còn hơn; châm biếm còn có nghĩa là cô thừa nhận cá nhân con người anh - thừa nhận cái ham muốn làm anh tổn thương. Nhưng giọng của cô chưa bao giờ hàm chứa một quan hệ cá nhân nào với anh - chưa hề, trong suốt cả hai mươi tháng.

Anh nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. Đây chính là điều làm một người đàn ông cảm thấy hạnh phúc - được ngồi, nhìn mơ màng vào ngọn lửa từ chính lò sưởi của mình, trong căn nhà của chính mình. Anh vẫn hay nghe thấy và đọc thấy như thế. Anh nhìn chằm chằm vào ngọn lửa, không nháy mắt, cố ép mình tuân thủ hoàn toàn cái chân lý đã được xác lập ấy. Chỉ thêm một phút nữa thôi và ta sẽ cảm thấy hạnh phúc - anh nghĩ và cố tập trung. Nhưng chẳng có gì xảy ra.

Anh nghĩ tới việc anh có thể mô tả cảnh tượng này một cách thuyết phục như thế nào cho bạn bè và khiến họ ghen tỵ với sự viên mãn của anh. Tại sao anh lại không thể tự thuyết phục chính mình? Anh đã có tất cả những thứ mà anh muốn. Anh muốn sự nổi trội - và trong cả năm vừa qua anh trở thành một thủ lĩnh không thể chối cãi trong ngành kiến trúc. Anh muốn nổi tiếng - và anh đã có năm album sưu tập đầy ắp các bài báo viết về anh. Anh muốn giàu có - và anh đã có đủ để sống xa hoa tới hết đời. Anh có tất cả những thứ mà mọi người đều muốn. Đã có bao nhiêu người cũng phấn đấu và chịu đựng để đạt được những gì anh đã có? Đã có bao nhiêu người mơ ước, đổ máu và chết vì những thứ này, và vẫn không thể có được chúng?

"Peter Keating là người may mắn nhất thế giới." Đã bao nhiêu lần anh nghe thấy người ta nói như thế?

Năm ngoái là năm tốt nhất trong đời anh. Anh đã có thêm một vật sở hữu tưởng như không thể có được - đó là Dominique Francon. Thật sung sướng được cười thoải mái khi bạn bè nhiều lần hỏi anh "Peter, làm thế quái nào mà anh làm được thế nhỉ?" Anh từng vui sướng khi giới thiệu cô với người lạ, bằng câu nói đơn giản "Vợ tôi", rồi ngắm nhìn sự ghen tỵ thẫn thờ, không kiểm soát được trong mắt họ. Một lần, tại một bữa tiệc lớn, một gã say rượu trông rất hào nhoáng đã hỏi anh, với một cái nháy mắt thể hiện dụng ý rõ ràng: "Nào, anh bạn, anh có quen tạo vật tuyệt vời ở đằng kia không?"

"Cũng hơi quen", Keating đã sung sướng trả lời, "cô ấy là vợ tôi."

Anh thường tự lấy làm mừng vì cuộc hôn nhân của họ hóa ra tốt đẹp hơn anh từng nghĩ. Dominique đã trở thành người vợ lý tưởng. Cô cống hiến hết mình cho lợi ích của anh: cô lấy lòng các khách hàng, cô tiếp đãi bạn bè và trông coi ngôi nhà của anh. Cô không thay đổi bất cứ thứ gì trong cuộc sống của anh: giờ giấc, món ăn anh thích, ngay cả đến cách sắp xếp đồ đạc của anh. Cô không mang theo bất kỳ cái gì, ngoài quần áo của cô; cô không mua thêm dù chỉ một quyển sách hay một chiếc gạt tàn cho căn nhà của anh. Khi anh nói quan điểm của mình về bất kỳ chủ đề gì, cô không tranh cãi mà luôn đồng ý với anh. Một cách duyên dáng, như lẽ tự nhiên phải thế, cô luôn chấp nhận vị trí thứ hai, và biến mất ở đằng sau anh.

Anh đã từng chờ đợi một cơn lũ sẽ nhấc anh lên và ném anh vào các tảng đá ngầm nào đó. Nhưng anh thậm chí không thấy cả một nhánh suối nào trên dòng sông phẳng lặng của anh. Tất cả diễn ra như thể dòng sông cứ tiếp tục chảy và có ai đó lặng lẽ bơi theo dòng cùng với anh; không, thậm chí không phải là bơi - bơi là một hành động mạnh mẽ, có ý thức - còn ở đây chỉ là sự lờ lững trôi theo sau anh cùng với dòng nước. Nếu như người ta cho anh quyền quyết định cách cư xử của Dominique sau khi họ cưới nhau, hẳn anh cũng sẽ đòi hỏi cô hành xử y hệt như hiện nay.

Chỉ có điều, những buổi tối của họ luôn khiến cho anh bất mãn một cách khốn khổ. Cô chiều theo anh bất cứ khi nào anh muốn cô. Nhưng chuyện xảy ra cũng giống y như đêm đầu tiên của họ: một thân thể ơ thờ trong vòng tay anh, không xúc cảm, không đáp lại. Cho tới tận bây giờ, đối với anh, cô vẫn là một trinh nữ vì anh chưa từng bắt cô phải trải qua kinh nghiệm gì mới. Mỗi lần như thế, lòng tràn ngập hổ thẹn, anh lại quyết định sẽ không bao giờ chạm vào người cô nữa. Nhưng ham muốn của anh lại trở lại, được kích thích bởi sắc đẹp hiện hữu liên tục của cô. Anh đầu hàng mỗi khi anh không thể cưỡng được nữa. Nhưng việc đó cũng không thường xuyên.

Chính mẹ anh là người đã nói ra điều mà anh không dám tự thú nhận với bản thân về cuộc hôn nhân này. "Mẹ không thể chịu đựng được", mẹ anh nói, sáu tháng sau đám cưới. "Nếu nó giận dữ với mẹ dù chỉ một lần, chửi bới mẹ, ném các thứ vào người mẹ thì còn có thể chấp nhận được. Nhưng như thế này thì mẹ không thể chịu được."

"Sao hả mẹ?", anh hỏi, cảm thấy mơ hồ một nỗi sợ hãi tê điếng. "Vô ích thôi, Peter," bà mẹ trả lời. Mẹ anh, người mà anh chưa bao giờ có thể ngăn những ý kiến, quan điểm, hay lời trách móc của bà, không bao giờ nói thêm một lời nào nữa về cuộc hôn nhân của anh. Bà mua một căn hộ nhỏ cho riêng mình và chuyển ra khỏi nhà anh. Bà thường xuyên đến thăm anh và luôn luôn lịch sự với Dominique, với một vẻ cam chịu kỳ lạ. Anh thường tự bảo mình là anh sẽ sung sướng khi không phải sống cùng mẹ anh, nhưng rồi anh đã không thấy sung sướng. Anh cũng không hiểu Dominique đã làm gì để có thể gây ra nỗi kinh sợ ngày càng tăng trong anh. Anh không thể tìm được một lời nói hay cử chỉ nào để trách móc cô. Nhưng trong vòng hai mươi tháng qua, lúc nào cũng giống như đêm nay: anh không thể chịu được nếu phải ở một mình với cô, nhưng anh cũng không muốn tách ra khỏi cô và cô cũng không muốn tránh mặt anh.

"Không có ai đến chơi tối nay à?" anh hỏi bằng một giọng đơn điệu và quay mặt khỏi lò sưởi.

"Không", cô trả lời, và mỉm cười - nụ cười như cầu nối với các từ tiếp theo của cô: "Anh muốn ở một mình không, Peter?"

"Không!" Nó gần như là một tiếng gào. Mình không được kêu gào giống như một kẻ tuyệt vọng như thế, anh nghĩ, trong khi nói to "tất nhiên là không. Anh rất thích khi có cả một buổi tối riêng với vợ anh."

Anh cảm thấy trực giác mơ hồ mách bảo là anh phải giải quyết được chuyện này, phải biết cách làm cho những giây phút họ ở bên cạnh nhau trở nên có thể chịu được, và anh không được trốn chạy khỏi chúng. Và anh phải làm việc đó là vì lợi ích của chính anh chứ không phải vì cô.

"Em muốn làm gì tối nay, Dominique?"

"Bất cứ điều gì anh muốn."

"Đi xem phim nhé?"

"Anh có muốn không?"

"Anh không biết. Nó giúp giết thời gian."

"Tốt thôi, nào hãy giết thời gian."

"Không. Tại sao chúng ta lại phải thế? Điều đó nghe thật tệ."

"Thật ư?"

"Tại sao chúng ta lại phải chạy khỏi căn nhà của chính mình? Hãy ở lại đây."

"Vâng, Peter."

Anh chờ đợi. Nhưng im lặng, anh nghĩ, cũng là chạy trốn, và còn là sự chạy trốn tồi tệ hơn.

Anh chờ đợi. Nhưng im lặng, anh nghĩ, cũng là chạy trốn, và còn là sự chạy trốn tồi tệ hơn.

"Em có muốn chơi trò Ngân hàng Nga không?"[107] anh hỏi.

"Anh thích chơi Ngân hàng Nga không?"

"Dào, nó giết thời..." Anh dừng lại. Cô mỉm cười.

"Dominique", anh nói, nhìn vào cô, "em đẹp quá. Em luôn luôn rất... rất, hết sức đẹp. Anh luôn muốn nói cho em biết anh cảm thấy như thế nào."

"Em muốn nghe anh cảm thấy như thế nào, Peter."

"Anh rất thích ngắm nhìn em. Anh luôn nghĩ tới những gì Gordon Prescott nói. Lão ấy bảo em là một công trình hoàn hảo của Thượng đế về toán kết cấu. Còn Vincent Knowlton thì nói em là một buổi sáng mùa xuân. Và Ellsworth - Ellsworth bảo rằng em như một sự nhạo báng với tất cả thân thể phụ nữ trên trái đất này."

"Thế còn Ralston Ho be?" cô hỏi.

"Thôi, không nói nữa", anh đột ngột ngắt lời, và quay mặt lại lò sưởi.

Mình biết tại sao mình không thể chịu được sự im lặng, anh nghĩ. Đó là vì đối với cô ta thì việc mình nói hay không nói chẳng có gì khác nhau, cứ như thể mình không tồn tại và chưa bao giờ tồn tại... điều này còn khó chấp nhận hơn là cái chết - vì như thế có nghĩa là chưa bao giờ được sinh ra... Anh đột nhiên cảm thấy một ham muốn tuyệt vọng mà anh không thể gọi tên - ham muốn được trở nên có thật đối với cô.

"Dominique, em có biết anh đang nghĩ gì không?" anh hỏi một cách hăm hở.

"Em không. Anh đang nghĩ gì?"

"Anh đã nghĩ về nó trong một thời gian, và hoàn toàn một mình. Anh chưa từng nói về nó cho bất kỳ ai. Và cũng không ai gợi ý cho anh. Nó là ý tưởng của anh."

"Thế thật tốt. Anh nghĩ gì?"

"Anh nghĩ anh muốn chuyển đến vùng nông thôn và xây một ngôi nhà cho chúng ta. Em có thích như thế không?"

"Em rất thích. Cũng như anh vậy. Anh sẽ tự thiết kế nhà chứ?"

"Đời nào! Không. Bennett sẽ vẽ cho anh. Anh ta thiết kế tất cả các căn nhà nông thôn cho hãng. Anh ta là bậc thầy về loại nhà này."

"Anh thích đi lại hàng ngày giữa nhà và nơi làm việc?"

"Không, anh rất ghét chuyện đó. Nhưng em biết đấy, ngày nay tất cả những người có danh phận một tí đều sống như vậy. Anh cảm thấy mình như một thằng nhà nghèo chết dẫm khi phải thú nhận là anh đang sống ở trong thành phố."

"Anh có thích ngắm cây cối, vườn tược và thiên nhiên xung quanh anh không?"

"Toàn những thứ vô bổ. Anh làm gì có thời gian chứ? Một cái cây chỉ là một cái cây. Khi xem một đoạn phim tài liệu về khu rừng trong mùa xuân là chúng ta đã thấy hết cả rồi."

"Anh có thích làm vườn không? Người ta bảo tự tay vun xới đất đai là một việc làm rất dễ chịu."

"Chúa ơi, không đời nào! Em nghĩ chúng ta là hạng người nào thế? Chúng ta đủ tiền thuê một người làm vườn, thậm chí một người làm vườn giỏi - và khu vườn của chúng ta sẽ khiến cho hàng xóm phải lác mắt."

"Anh có muốn thử chơi một môn thể thao nào không?"

"Ừ. Anh muốn thế."

"Môn gì?"

"Anh nghĩ anh chơi golf thì tốt hơn. Em biết đấy, là thành viên của một câu lạc bộ golf ngay tại cộng đồng mà mình là thành viên ưu tú sẽ khác hẳn với việc thỉnh thoảng đi chơi golf vào ngày cuối tuần. Và những người mình sẽ gặp ở đó cũng sẽ khác. Thuộc tầng lớp cao hơn nhiều. Và các mối quan hệ mà mình có thể có được..." Anh tự giật mình, và nói thêm một cách giận dữ. "Anh cũng sẽ thử cưỡi ngựa."

"Em thích cưỡi ngựa. Anh có thích không?"

"Anh chưa bao giờ có nhiều thời gian để cưỡi ngựa. Với lại chơi môn này quả thật là xóc bụng. Nhưng Gordon Prescott là cái thá gì mà dám cho rằng hắn là đấng mày râu duy nhất trên trái đất và hắn trưng ảnh hắn mặc đồ cưỡi ngựa ngay trong phòng khách."

"Em đoán là anh muốn có một chút riêng tư?"

"Hừm, anh không tin vào mấy thứ linh tinh kiểu ốc đảo này nọ. Anh nghĩ căn nhà cần nằm gần xa lộ lớn, để mọi người có thể chỉ trỏ nhau rằng đây là biệt thự nhà Keating. Claude Stengel là cái thá gì mà đã có biệt thự ở nông thôn trong khi anh vẫn phải sống trong một căn hộ cho thuê? Hắn bắt đầu sự nghiệp vào cùng khoảng thời gian với anh, và xem thử hắn đã làm được gì và anh đã làm được gì, đấy, may lắm thì hắn cũng chỉ có được hai người rưỡi từng nghe tới tên hắn, thế mà tại sao hắn lại có nhà ở Westchester và..." Anh dừng lại. Cô nhìn vào anh, khuôn mặt bình thản.

"Quỷ tha ma bắt!", anh kêu lên "nếu em không muốn chuyển tới sống ở nông thôn, sao em không nói toẹt ra?"

"Em rất muốn làm bất cứ điều gì anh muốn, Peter. Em muốn tuân theo tất cả những ý kiến mà anh tự mình có được."

Anh ngồi lặng yên một lúc lâu.

"Tối mai chúng ta sẽ làm gì?" anh hỏi trước khi có thể kiềm chế được mình.

Cô đứng dậy, bước tới bàn và lấy cuốn lịch của mình.

"Chúng ta sẽ ăn tối với nhà Palmer vào tối mai," cô nói.

"Chúng ta sẽ ăn tối với nhà Palmer vào tối mai," cô nói.

"Chúa tôi!", anh than vãn "Bọn họ thật chán ngấy! Tại sao chúng ta phải ăn tối với họ chứ?"

Cô đứng, những đầu ngón tay kẹp quyển lịch ngửa về phía trước, như thể cô là một tấm ảnh mà trọng tâm là quyển lịch còn hình hài chính của cô thì nhòe đi để làm nền cho nó.

"Chúng ta phải ăn tối với nhà Palmer", cô nói "để có thể nhận được hợp đồng nhà kho mới của họ. Chúng ta phải có hợp đồng này để có cái mà nói chuyện trong bữa tối với nhà Eddington vào thứ Bảy. Nhà Eddington không có hợp đồng nào cho chúng ta, nhưng họ có tên trong Danh mục Đăng ký Xã hội. Nhà Palmer làm anh phán chán và nhà Eddington thì khinh bỉ anh. Nhưng anh phải tâng bốc những người mà anh khinh bỉ để có thể gây ấn tượng được với những người khinh bỉ anh."..

"Tại sao em cứ phải nói những điều như thế?"

"Anh có muốn xem cuốn lịch này không, Peter?"

"Thì ai mà chả làm như vậy. Tất cả mọi người đều sống vì những thứ đó."

"Phải, Peter. Hầu như tất cả mọi người."

"Nếu em không đồng ý thì tại sao em không nói?"

"Em đã nói câu nào về chuyện không đồng ý chưa?"

Anh cẩn thận nhớ lại. "Không", anh thừa nhận "Không, em chưa nói... Nhưng cái cách mà em nói..."

"Thế anh có thích em nói ý kiến của em không - như là em đã nói về Vincent Knowlton?"

"Anh muốn..." và anh kêu lên - "Anh muốn em bày tỏ quan điểm, quỷ bắt tôi đi, dù chỉ một lần!"

Cô hỏi lại, vẫn với giọng đơn điệu như cũ: "Quan điểm của ai cơ hả Peter? Của Gordon Prescott? Của Ralston Ho be? Hay của Ellsworth Toohey?"

Anh quay sang cô, dựa vào tay ghế, nửa như nhổm dậy và đột nhiên căng thẳng. Cái tồn tại giữa họ bắt đầu có hình hài rõ ràng. Anh có được những từ đầu tiên để có thể gọi tên nó.

"Dominique," anh nói nhẹ nhàng và chừng mực, "chính là thế đấy. Giờ thì anh biết. Giờ thì anh biết vấn đề trong cuộc sống của chúng ta là gì."

"Đã có vấn đề gì sao?"

"Chờ đã. Việc này rất quan trọng. Dominique, em chưa bao giờ nói, dù chỉ một lần, em nghĩ gì. Dù là về cái gì. Em chưa bao giờ bộc lộ một ham muốn. Bất kể là ham muốn gì."

"Như thế thì có gì sai?"

"Nhưng như thế... như thế giống như là chết. Em không có thực. Em chỉ là một cái xác. Nghe này, Dominique, em không biết đâu, anh sẽ cố giải thích. Em biết chết là thế nào chứ? Khi phần xác không thể cử động, khi nó không có... không có ý chí, không có ý nghĩa. Em hiểu không? Không có gì cả. Hoàn toàn không có gì. Tất nhiên, thân thể em vẫn cử động - nhưng chỉ có mỗi thế thôi. Phần kia, cái phần ở bên trong em, phần - ồ, đừng hiểu lầm anh, anh không nói tới tôn giáo, nhưng không có từ nào thay thế cho nó, nên anh sẽ nói: phần linh hồn của em - linh hồn của em không tồn tại. Không ý chí, không ý nghĩa. Sẽ không còn thực sự là em nữa."

"Thế thực sự em là cái gì?" - Cô hỏi. Lần đầu tiên, trông cô tỏ ra quan tâm. Cô không hào hứng, nhưng ít nhất là có quan tâm.

"Một người thực sự là gì à?" - anh nói, cảm thấy được khích lệ, "đó không chỉ là thân thể. Đó là... đó là linh hồn."

"Linh hồn là gì?"

"Là - em. Là cái ở bên trong em."

"Là cái khiến ta suy nghĩ, đánh giá và ra quyết định."

"Đúng vậy! Đúng rồi, chính nó. Và là cái biết cảm giác nữa. Em - em đã đánh mất nó."

"Như thế là có hai thứ mà chúng ta không thể đánh mất là ý nghĩ và ham muốn phải không?"

"Đúng rồi! Ồ, em có hiểu đấy chứ! Đấy, em thấy đấy, em giống như một cái xác với tất cả những người quanh em. Như một cái xác chết biết đi. Nó còn tồi tệ hơn bất cứ một tội ác thực sự nào. Nó là..."

"Sự trống rỗng?"

"Đúng. Hoàn toàn trống rỗng. Em không ở đây. Em chưa bao giờ ở đây cả. Nếu em bảo với anh là tấm rèm trong căn phòng này trông thật nhơ nhuốc rồi em xé bỏ nó để thay bằng cái khác mà em thích - như thế tức là em còn có thực, em ở đây, trong căn phòng này. Nhưng em chưa bao giờ làm thế cả. Em chưa bao giờ nói với đầu bếp là em thích tráng miệng gì vào bữa tối. Em không ở đây, Dominique. Em không hề sống. Cái Tôi của em ở đâu thế?"

"Của anh thì ở đâu, Peter?" cô hỏi lặng lẽ.

Anh ngồi yên, mắt mở to. Cô hiểu rằng ý nghĩ của anh, trong phút này, hiện ra rõ ràng và trực tiếp như thể anh đang nhìn thấy nó, và việc anh suy nghĩ cũng giống như việc nhìn vào những năm tháng đã nối nhau ở lại sau lưng anh.

"Không đúng", cuối cùng anh nói, giọng trống rỗng, "Không phải thế."

"Cái gì không đúng?"

"Điều em vừa nói."

"Em không nói gì cả. Em chỉ hỏi anh một câu hỏi."
Chương trước Chương tiếp
Loading...