Tiếng Gọi Tình Yêu Giữa Lòng Thế Giới

Chương 01 - Phần 07 - 08



Phần 07

Đến ngày hôm sau đầu tôi vẫn ong ong vì rượu, chẳng nhớ nổi hàm lượng giác hay câu gián tiếp là gì. Cả buổi sáng tôi phải lấp mặt sau mấy cuốn sách giáo khoa, cố nén cơn buồn nôn. Nhịn qua giờ thể dục tiết bốn, dần dà tôi cũng lấy lại được chút tỉnh táo. Bữa trưa, tôi và Aki ngồi ăn cơm hộp với nhau trong sân trường. Cứ nhìn phải cái vòi phun nước là tôi lại thấy khó chịu, nên hai đứa chuyển ra ngồi ở cái ghế dài quay lưng lại đài phun nước. Tôi kể cho Aki chuyện tình hồi xưa của ông nội.

“Vậy tức là ông của Saku-chan vẫn luôn nhớ tới người đó nhỉ,” Aki nói, dường như khóe mắt đã hơi ướt nước.

“Ừ, có lẽ vậy.” Tôi gật đầu trong tâm trạng khá hỗn độn. “Hình như cũng muốn từ bỏ, nhưng vẫn không thể quên được.”

“Người đó hẳn cũng không quên được ông bạn nhỉ?”

“Kỳ quặc nhỉ?”

“Sao lại kỳ?”

“Sao lại thế à, cả nửa thế kỷ đấy. Đủ cho cả một loài sinh vật tiến hóa ấy chứ.”

“Cả một quãng thời gian dài như thế, trong lòng thủy chung cũng có chỉ có hình bóng một người, chẳng phải hiếm có lắm sao?” Aki đáp, ánh nhìn như thể đang để tâm hồn trôi dạt nơi xa xôi.

“Mọi sinh vật trên đời này đều phải già đi, ngoài tế bào mầm ra, tất cả các tế bào khác đều khó tránh khỏi bị lão hóa. Khuôn mặt Aki cũng dần dần có nhiều nếp nhăn thôi.”

“Ý bạn là thế nào?”

“Cho dù quen nhau mới hai mươi tuổi chăng nữa, năm mươi năm sau chẳng phải đã bảy mươi còn gì?”

“Thì sao?”

“Thì sao à, yêu say đắm một bà già bảy mươi tuổi, nghe cứ kỳ cục sao đó.”

“Mình lại thấy rất tuyệt vời đấy chứ.” Aki bỏ ngoài tai lời tôi nói, có vẻ hơi phật ý.

“Ờ, và thỉnh thoảng lại lén lút gặp nhau ở khách sạn nhỉ?”

“Vô duyên!” Aki lườm tôi với ánh nhìn sắc như dao.

“Ông nội mình hoàn toàn đủ khả năng làm mấy chuyện như thế mà.”

“Saku mới là cái loại làm chuyện đó thì có.”

“Không đời nào!”

“Đúng thế đấy!”

Cuộc tranh luận mãi không ngã ngũ, tới giờ khoa học buổi chiều vẫn chưa kết thúc. Thầy giáo dạy sinh vật nói, ADN của con người và loài tinh tinh giống nhau đến 94,8%. Sự khác biệt trong gien di truyền của hai loài này còn ít hơn cả giữa tinh tinh với khỉ đột. Thế nên loài gần gũi nhất với tinh tinh không phải khỉ đột mà lại chính là con người chúng ta. Cả lớp phá lên cười. Có gì buồn cười đâu, cái lũ ngốc.

Tôi và Aki ngồi cuối lớp học. Hai đứa vẫn không ngừng tranh cãi về chuyện của ông nội tôi.

“Như vậy có tính là ngoại tình không nhỉ?” Tôi nêu lên một vấn đề quan trọng.

“Đó là tình yêu trong sáng mà,” Aki lập tức phản bác.

“Nhưng mà cả ông nội và người đó đều đã có gia đình rồi.”

Aki suy nghĩ một chút rồi nói, “Nếu nhìn từ góc độ của chồng người đó hay bà nội Saku thì có thể là ngoại tình, nhưng với người trong cuộc thì đó là tình yêu trong sáng.”

“Nói vậy tức là ngoại tình hay tình yêu trong sáng là còn tùy vào từng góc độ nhìn nhận cơ à?”

“Mình nghĩ là do chuẩn mực khác nhau.”

“Khác nhau như thế nào?”

“Ngoại tình, nói cho cùng chỉ là một khái niệm phụ thuộc vào từng xã hội khác nhau mà thôi. Thời đại khác nhau thì khái niệm cũng khác nhau. Chẳng hạn trong xã hội có chế độ đa thê, thì phải luận theo cách khác. Có điều việc thương nhớ một người suốt năm mươi năm trời thì mình nghĩ còn vượt qua cả văn hóa và lịch sử rồi.”

“Có vượt qua cả chủng loài không?”

“Hả?”

“Liệu một con tinh tinh đực có thể nhớ nhung một con tinh tinh cái trong suốt năm mươi năm không?”

“Mình làm sao biết được chuyện của bọn tinh tinh chứ?”

“Tóm lại thì tình yêu chân chính vĩ đại hơn chuyện ngoại tình chứ?”

“Từ ‘vĩ đại’ ấy có lẽ không đúng cho lắm.”

Tranh luận đang tới cao trào thì giọng thầy giáo vang lên, “Hai em kia, từ nãy tới giờ nói chuyện gì vậy?” Thế là hai chúng tôi bị thầy phạt phải đứng cuối lớp. Độc tài! Nói chuyện con người và tinh tinh có khả năng giao phối thì được, nhưng nói chuyện tình yêu nam nữ vượt qua khoảng cách thời gian thì không cho. Bị phạt đứng nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục thì thào chuyện của ông nội.”

“Aki có tin vào kiếp sau không?”

“Sao hỏi thế?”

“Bởi vì ông nội và người yêu từng hẹn ước hai người sẽ mãi bên nhau ở thế giới bên kia.”

Aki ngẫm nghĩ một chút rồi nói, “Mình chẳng tin đâu.”

“Hàng ngày Aki vẫn hay cầu nguyện trước khi đi ngủ còn gì?”

“Mình tin vào Chúa Trời mà,” em rành rọt đáp.

“Chúa Trời và kiếp sau thì khác gì nhau chứ?”

“Saku-chan không cảm thấy kiếp sau như được tạo ra dựa trên kiếp này hay sao?”

“Saku-chan không cảm thấy kiếp sau như được tạo ra dựa trên kiếp này hay sao?”

Câu nói đó khiến tôi phải suy nghĩ đôi chút.

“Vậy thì ông nội và người đó có sang thế giới bên kia cũng không được ở bên nhau rồi.”

“Aki chỉ nói mình tin hay không tin thôi.” Aki như muốn chữa lời. “Ông nội Saku-chan và người đó chắc hẳn có suy nghĩ khác.”

“Có lẽ Chúa Trời cũng chỉ là do con người ta tưởng tượng ra mà thôi. Tưởng tượng ra để khi nào cần thì đi cầu xin khấn vái.”

“Chúa Trời của mình khác hẳn như thế.”

“Chúa Trời cũng có mấy vị cơ à? Hay là mấy loại?”

“Dù không tin vào thiên đường, ta cũng vẫn nên kính sợ Chúa Trời. Đêm nào mình cũng cầu nguyện trong niềm kính sợ ấy.”

“Cầu xin Chúa Trời tha thứ cho con à?”

Rốt cuộc chúng tôi bị tống ra đứng ngoài hành lang. Ra ngoài đó, hai đứa lại tiếp tục tranh luận về thiên đường và Chúa Trời cho tới khi tan học. Sau đó chúng tôi bị gọi vào phòng giáo viên lần lượt nghe thày sinh vật và cô chủ nhiệm quạt cho một trận, rằng thân thiết nhau cũng tốt thôi, nhưng trong lớp học thì phải chuyên tâm nghe giảng.

Khi chúng tôi ả khỏi cổng trường thì trời đã nhá nhem. Hai đứa lặng lẽ đi về hướng công viên Daimyo. Con đường đi qua sân chơi và Viện Bảo tàng Lịch sử. Có cả một tiệm cà phê tên là Joukamachi. Hai đứa từng ghé vào đó một lần sau khi tan học, nhưng cà phê dở quá nên chẳng bao giờ quay lại lần thứ hai. Chúng tôi đi qua một xưởng rượu cũ, tới con sông nhỏ chảy ngang qua thành phố. Aki đợi hai đứa qua cầu rồi mới lên tiếng.

“Rốt cuộc, họ cũng chưa từng được ở bên nhau,” Aki lại nói về chuyện ông tôi. “Cho dù đã chờ đợi những năm mươi năm.”

“Hình như họ định sẽ về bên nhau sau khi chồng bà ấy mất.” Tôi cũng đang nghĩ về chuyện của ông nội. “Vì sau khi bà nội qua đời, ông nội vẫn sống một mình.”

“Bao lâu rồi?”

“Mười năm rồi. Nhưng người yêu ông lại mất trước cả chồng bà ấy, nên ông nội và người đó không được như ý nguyện.”

“Thật là một câu chuyện buồn.”

“Mình lại thấy buồn cười làm sao ấy.”

Cuộc đối thoại dừng ở đó. Chúng tôi tiếp tục bước đi, đầu cúi thấp. Qua tiệm rau và tiệm bán chiếu tatami, rẽ ở góc phố chỗ tiệm cắt tóc, chúng tôi đã gần tới nhà Aki.

“Saku-chan à, giúp ông bạn đi.” Dường như nhận ra đoạn đường về chung chỉ còn rất ngắn, em nói với tôi như vậy.

“Nói thì dễ thế, dây là chuyện đi đào trộm mộ người ta đấy.”

“Bạn sợ à?”

“Nào chỉ mỗi sợ thôi đâu?”

“Tội Saku-chan chưa kìa.” Aki cười.

“Có gì vui lắm sao?”

“À, không.”

Nhà Aki hiện ra phía trước. Tôi chỉ việc rẽ phải ở con phố trước mặt và băng qua đường là về đến nhà. Chỉ còn khoảng năm mươi mét nữa. Không ai lên tiếng trước, hai đứa bước chậm dần cho tới khi đứng hẳn lại.

“Cái việc đó… là phạm pháp đúng không?” tôi hỏi.

“Nghiêm trọng vậy sao?” Aki hơi bối rối ngước mặt lên.

“Lại còn không phải nữa hay sao?”

“Tính là tội gì nhỉ?”

“Đương nhiên là quấy rối tình dục rồi.”

“Nói bậy nào!”

Aki bật cười, mái tóc dài mềm mại xõa ngang vai của em khẽ rung rung, làm chiếc áo khoác trắng càng thêm nổi bật. Bóng chúng tôi trải dài, nửa trên hai cái bóng bị gập lại, chiếu trên bức tường bê tông ở đằng trước.

“Người ta mà phát hiện thì thế nào cũng bị đuổi học.”

“Thế thì mình sẽ đến nhà thăm bạn.”

Nghe có vẻ như một lời khích lệ?

“Thoải mái quá nhỉ, Aki đúng là Aki,” tôi thở dài lẩm bẩm.

Phần 08

Tôi nói với cha mẹ rằng mình sẽ ngủ lại nhà ông nội. Hôm đó là thứ Bảy. Hai ông cháu gọi sushi cho bữa tối. Ông nội chơi sang, gọi liền hai suất đặc biệt. Dù thế, thậm chí tôi còn chẳng phân biệt nổi đâu là cá ngừ đâu là nhím biển nữa. Món bào ngư thì dai như cao su. Hôm nay không có bia cũng chẳng có vang Bordeaux, chúng tôi vừa uống trà vừa xem bóng chày truyền hình trực tiếp, sau đó uống cà phê. Tới giữa trận đấu thì giờ phát sóng kết thúc.

“Tới lúc khởi hành rồi,” ông nói.

Mộ của người đó ở khu ngoại ô phía Đông thành phố, nằm trong một ngôi đền thờ phu nhân của một vị lãnh chúa. Chúng tôi xuống taxi chỗ gần ngôi đền. Khu này ở dưới chân núi, là chỗ đầu tiên bị cắt nước mỗi khi thiếu nước vào mùa hè. Dù mới tháng Chín, nhưng tiết trời ban đêm đã se lạnh.

Bên cạnh bậc đá dẫn tới đại sảnh có một cánh cổng nhỏ, bên trong cánh cổng là một con đường đất đỏ chạy thẳng tới khu nghĩa trang. Bên trái là một bức tường trát thạch cao trắng, phía bên kia có lẽ là khu nhà ở của các nhà sư, song hoàn toàn không có dấu hiệu nào cho thấy có người sống ở đó. Chỉ có chút ánh sáng tù mù hắt ra từ nơi dường như là cửa sổ của nhà vệ sinh. Bên phải chúng tôi là những ngôi mội cổ có lẽ từ thời Mạc Phủ. Những ngọn tháp dagoba nghiêng ngả và bia mội nứt vỡ trông như đang trôi bồng bềnh trong ánh trăng. Dọc theo con đường dẫn lên sườn núi, hàng cây bách và tuyết tùng sum sê phủ bóng, cơ hồ che khuất cả bầu trời. Cuối con đường này chính là nơi chôn cất phu nhân lãnh chúa. Trong bóng tối, tôi lờ mờ trông thấy một hàng bia mộ hình dáng kỳ lạ, hình lập phương, hình cầu, hình nón… Chúng tôi vòng qua bên trái, tiếp tục đi sâu vào trong khu. Hai ông cháu có mang theo một chiếc đèn pin nhỏ, nhưng sợ bật lên sẽ khiến người trong chùa chú ý nên đành mò mẫm đi dưới ánh trăng.

“Ở đâu hả ông?” tôi hỏi ông nội đang bước nặng nề phía trước.

“Đằng trước kia kìa.”

“Ông tới đó lần nào chưa?”

“Ông tới đó lần nào chưa?”

“Ừm.” Ông thật kiệm lời.

Rốt cuộc thì ở đây có bao nhiêu ngôi mộ? Sườn dốc thoai thoải gần như bị bia mộ phủ kín. Mỗi mộ lại không nhất thiết chỉ chứa hài cốt của một người. Nếu trung bình một ngôi mộ chôn cất tro xương của hai hay ba người thì thực không thể ước đoán tại nghĩa trang này có bao nhiêu người đang yên nghỉ. Tôi từng đến nghĩa trang nhiều lần vào ban ngày. Nhưng vào lúc muộn thế này thì đây mới là lần đầu. Nghĩa trang về đêm khác hẳn lúc ban ngày, có thể cảm nhận rõ ràng sự hiện diện của người đã khuất, rõ như là hơi thở vậy. Ngước mắt lên, tôi thấy vài con dơi đang bay trên những ngọn cây đại thụ che khuất cả vòm trời.

Đột nhiên, bầu trời hiện ra trước mắt, những ngôi sao dường như đang ào ào đổ xuống chúng tôi. Tôi thôi ngước nhìn lên và đi tới phía sau lưng ông nội.

“Ở đây ạ?”

“Ừ, ở đây.”

Trước mắt tôi hiện ra một ngôi mộ hoàn toàn bình thường. Đó là một ngôi mộ khá lớn và có vẻ được xây từ khá lâu rồi.

“Giờ làm gì đây ạ?”

“Khấn trước đã.”

Tôi thấy thật quái gở nếu phải khấn nguyện khi đang đi trào trộm mộ người ta, ông nội rút que hương trầm đã chuẩn bị sẵn ra để châm lửa, rồi chắp hai tay lại với vẻ nghiêm trang và lặng im cầu nguyện. Không còn cách nào khác, đứng sau lưng ông, tôi cũng chắp tay cầu nguyện. Tôi nghĩ đó là cách bày tỏ sự hối lỗi với những người nằm dưới kia về việc đào trộm mộ lần này.

“Giờ,” ông tôi nói, “dịch cái này sang một bên đã.”

Hai ông cháu nhấc bát hương bằng đó lên và chuyển nó sang bên cạnh.

“Cháu chiếu đèn pin đi.”

Ở dưới viên đá kê bát hương có một phiến đá mỏng đậy kín nấm mộ. Ông tôi phải dùng tuốc nơ vít nạy vào các góc của rãnh giữa nắp và thành mộ bằng đá. Một hồi sau phiến đá cũng xê dịch và chỉ dùng tay ông cũng nạy được nắp mộ lên. Bên trong là một thạch thất khá rộng. Nếu gập mình thì một người lớn cũng có thể chui lọt vào trong.

“Đưa ông cái đèn.”

Ông nội cầm đèn pin rồi nằm sấp xuống, chui cả nửa thân trên vào trong mộ. Tôi ở phía trên đè giữa hai chân ông để ông khỏi ngã lộn nhào xuống dưới. Ông nội sục sạo một hồi, rồi đưa tôi cái đèn pin, sau đó cẩn thận dùng cả hai tay nhấc một chiếc bình sứ đựng tro cốt ra. Tôi lẳng lặng nhìn ông làm. Ông chiếu đèn pin vào đáy bình xác định lại tên người ghi bên dưới, rồi tháo sợi dây thừng nhỏ bên trên và từ từ mở nắp. Bên trong bình là tro cốt của người đó. Cứ như thế một hồi lâu. Tới khi cất tiếng gọi “Ông ơi!”, tôi mới nhận ra hai vai ông đang khẽ run run dưới ánh trăng.

Ông chỉ lấy trong bình ra một chút xíu tro rồi để vào một chiếc hộp gỗ nhỏ đã chuẩn bị sẵn. “Đã mất bao công để tới đây cơ mà, việc gì ông phải rón rén đến thế!” tôi suýt nói thế nhưng đã kìm lại được. Ông lại nhìn chăm chăm vào trong bình tro một lúc rồi đậy nắp lại và thít dây vào trong bình tro một lúc rồi đậy nắp lại và thít dây như cũ. Sau đó tôi lại giữ chân để ông chui vào đặt chiếc bình trờ về chỗ cũ. Cuối cùng, tôi đẩy bệ đá trở lại. Các cạnh của phiến đá đều bị trầy xước do ông chọc tuốc nơ vít vào.

Khi chúng tôi về tới căn hộ của ông thì đã gần mười hai giờ đêm. Hai ông cháu rót bia lạnh ra chạm cốc. Tôi thấy khá hài lòng, nhưng ngoài ra cũng thấy đôi chút cô đơn.

“Chỉ vì ông mà Saku phải thức khuya quá,” ông tôi nói.

“Không sao đâu ạ,” tôi nói, rót thêm bia vào chiếc cốc đã vơi đến một nửa của ông. “Dù sao, nếu không có cháu ông cũng tự làm việc đó được mà.”

Nâng cốc bia lên miệng nhưng gương mặt ông lại hiện lên một cái nhìn xa xăm. Thế rồi, ông đứng lên và lấy một cuốn sách từ trên giá xuống.

“Sakutaro học thơ cổ Trung Quốc rồi phải không?” Ông mở cuốn sách có vẻ cũ kỹ ấy ra. “Đọc thử bài này xem nào.”

Tên bài thơ đó là “Cát sinh”. Phía dưới phần Hán văn có đoạn dịch thơ tiếng Nhật, tôi liền nhìn vào đó.

“Cháu có hiểu bài thơ muốn nói gì không?”

“Đại khái là ‘khi chết đi muốn được chôn cùng một mộ’ đúng không ạ?”

Ông lặng lẽ gật đầu, rồi đọc lại đoạn thơ cuối: “Đông chi dạ, hạ chi nhật. Bách niên chi hậu, quy vu kỳ thất.”[6]

“Đoạn thơ có nghĩa là, qua bao ngày hạ lê thê và những đêm đông đằng đẵng, em cứ an nghỉ nơi đây. Trăm năm nữa qua đi, rồi ta cũng sẽ tới đây nằm cạnh em. Hãy bình yên chờ ngày đó tới.”

“Đằng nào thì người yêu cũng chết rồi.”

“Cho dù có tiến bộ bao nhiêu đi nữa, cảm xúc của con người vẫn vậy, sâu thẳm trong tâm hồn chúng ta hầu như không thay đổi. Bài thơ này được viết cách đây hơn 2000 năm, thậm chí có khi còn lâu hơn thế. Nó đã tồn tại từ trước cả khi người ta sáng tạo ra thể thơ Tứ tuyệt và Đường luật mà cháu đang học ở trường hiện giờ. Vậy mà, dường như ngày nay chúng ta vẫn có thể thấu hiểu được cảm xúc của những người thời đó. Ông nghĩ chẳng cần phải được giáo dục tử tế hay được học bổng mới có thể hiểu được cảm xúc ấy đâu.”

Hộp gỗ nhỏ nằm trên mặt bàn. Người nào không biết chắc dễ nhầm tưởng bên trong chứa cuống rốn hay huy chương gì đó. Cảm giác thật kỳ quặc.

“Cháu giữ cái hộp này cho ông.” Đột nhiên ông nội buông ra một câu. “Khi ông chết, cháu hãy trộn tro cốt của ông với của bà ấy mà rải.”

“Khoan đã ông ơi!” tôi nói.

“Lấy ra một nhúm tro của ông bằng với nhúm tro trong hộp này và trộn lại với nhau. Rồi cứ rải ở bất cứ nơi nào cháu thích.” Ông lặp lại lời yêu cầu như thể đang lập di chúc vậy.

Giờ tôi mới nhận ra ý đồ của ông nội. Nếu chỉ muốn lấy trộm tro cốt, một mình ông cũng làm được. Mất công lôi thêm đứa cháu trai vào làm kẻ đồng lõa, hóa ra tất cả đều có mục đích cả.

“Cháu đã hứa với ông rồi mà,” ông nói như để chắc chắn.

“Cháu không thực hiện được lời hứa kiểu đó đâu,” tôi đáp lại ngay.

“Làm ơn thực hiện nguyện vọng của lão già này đi,” ông nói như sắp khóc đến nơi.

“Cháu không biết đâu, việc đó phiền lắm.”

“Việc đó thì có gì khó đâu nào?”

Chỉ lúc đó tôi mới nhớ là có lần cha từng phàn nàn với mẹ về sự ích kỷ của ông nội. Phải rồi, ông chỉ nghĩ đến bản thân thôi. Ông là kiểu người chỉ chú ý tới điều mình muốn chứ không hề quan tâm tới việc gây phiền hà cho người khác.

“Ông có dám chắc mình muốn giao một việc quan trọng như vậy cho cháu không?” tôi cố thuyết phục ông.

“Ông còn có thể nhờ ai được nữa chứ?” Người già thực quá ư ương ngạnh.

“Cha cháu chứ còn ai nữa,” tôi thốt lên.”Cha cháu là con trai ông mà. Hơn nữa cha sẽ là người quán xuyến tang lễ của ông với tư cách người chủ gia đình.”

“Cái thằng sỗ sàng đó làm sao mà hiểu được kiểu người như chúng ta cơ chứ!”

“Chúng ta…” Tôi thoáng lặng người.

“Chúng ta…” Tôi thoáng lặng người.

Ông nói, “Thì ông và cháu luôn hợp nhau lắm mà.” Rồi ông tiếp tục. “Ông biết chắc chắn cháu sẽ hiểu được, thế nên hồi trước ông mới đợi Saku lớn lên chút nữa.”

Tôi có cảm giác như ý định của ông đã có từ lâu, trước cả cái hôm tôi bị dụ dỗ vì món lươn nướng. Không, có khi từ trước đó, ông nội đã luôn ngấm ngầm theo đuổi mục đích này và kiên nhẫn nuôi dạy tôi cho tới ngày hôm nay. Nghĩ kỹ lại, tôi thấy mình như cô bé Murasaki[7] trong truyện Truyền kỳ về chàng Genji.

“Đại loại thì, khi nào ông mới mất chứ?” Ngược hẳn với nội tâm đang xáo động, giọng tôi bình tĩnh lạ thường.

“Có lẽ phải chờ khi nào thời gian của ông hết thôi.” Ông trả lời, dường như không mảy may bị tác động với sự thay đổi trong giọng nói của tôi.

“Thì khi nào chứ?”

“Chính ông cũng không biết, nên ông mới nói vậy chứ. Nếu ta biết được thế thì cuộc đời có khác gì một kế hoạch đâu.”

“Vậy làm sao ông biết chắc rằng cháu sẽ ở cạnh ông khi ông mất? Lỡ đâu người ta hỏa thiêu ông lúc cháu không có mặt, thế thì làm sao cháu lấy được tro cốt của ông chứ.”

“Nếu thế thì cháu chỉ việc đào trộm mộ ông thôi, như hôm nay ông cháu ta vừa làm ấy.”

“Ông muốn cháu làm vậy lần nữa sao?”

“Xin cháu đấy,” giọng ông nghe như van nài, “cháu là người duy nhất ông có thể nhờ cậy chuyện này.”

“Nói thì thế nhưng…”

“Sakutaro à, thực sự rất khủng khiếp khi người mình yêu qua đời. Nỗi đau này, dẫu làm gì đi nữa nó cũng không thể thành hình. Có thể vì thế mà con người muốn tạo hình cho nó. Chẳng phải cũng như bài thơ ông cháu mình vừa đọc đó sao, vô cùng khó khăn khi ta phải ly biệt nhưng vẫn còn cơ hội cuối cùng để ở cạnh người đó. Xin cháu đấy, hãy biến nguyện vọng của ông và bà ấy trở thành hiện thực.”

Tôi luôn có chút nể trọng với người lớn tuổi. Nhưng thực ra, chính cụm từ “ông và bà ấy” mới là thứ khiến tôi cảm động.

“Vậy là cháu đồng ý sẽ thực hiện yêu cầu của ông?” Khuôn mặt ông như bừng sáng lên.

“Thì cháu còn có lựa chọn nào khác đâu.”

“Nhờ cháu cả đấy,” ông nói, mắt cụp xuống trong giây lát.

“Nhưng mà ‘bất cứ nơi nào cháu thích’ nghe không ổn chút nào. Ông phải dặn cháu cụ thể là ở đâu chứ.”

“Việc đó thì được.” Ông có vẻ suy tư. “Nhưng làm sao mà biết được điều gì sẽ xảy ra ở nơi đó khi ông chết đi. Giả dụ ông dặn cháu đem rải tro ở một gốc cây và mười năm sau nơi đó thành đường nhựa thì sao.”

“Nếu thế thì ông có thể chọn chỗ khác.”

Ông ngẫm nghĩ một hồi rồi nói, “Thôi, ông để cháu tự quyết định hết. Ông dựa cả vào phán đoán của cháu đấy.”

“Cháu đã nói là không được rồi mà. Hay là, ông thử nói xem địa điểm chung chung là ở đâu: núi, biển hay trên trời?”

“Hừm, có lẽ là biển.”

“Biển ạ?”

“Nhưng hãy chọn nơi nào nước sạch một chút.”

“Được rồi. Cháu sẽ tìm một vùng nước sạch và rải tro xuống đó.”

“Khoan đã, nếu là biển thì lỡ đâu sóng đánh dạt lên sẽ chia rẽ ông và bà ấy về hai hướng khác nhau thì sao.”

“Ừ, cũng có thể.”

“Vậy hãy lên núi đi.”

“Núi ạ?”

“Nơi nào đó mà bọn xây dựng sẽ không kéo đến ấy.”

“Vậy cháu sẽ tìm một nơi thật cao và vô cùng hẻo lánh.”

“Ở gần chỗ nào đó có hoa thì tốt.”

“Hoa ấy ạ?”

“Bà ấy thích hoa violet.”

Tôi khoanh tay lại nhìn ông nội chằm chằm.

“Sao thế?”

“Yêu cầu đó quá chi tiết.”

“Ồ, ông xin lỗi.” Ông đưa mắt nhìn ra xa như thể rất cô đơn. “Cháu đừng để bụng cái sự tham lam của lão già này.”

Tôi hắt ra một hơi thở rất dài, đủ mạnh để ông nghe thấy.

“Vậy là rải tro trên núi, nơi không ai qua lại và có hoa violet phải không ạ?”

“Cháu chán lắm rồi, phải không?”

“Không đâu ạ.”

“Được rồi.”
Chương trước Chương tiếp
Loading...