Tuyển Tập Truyện Giả Tưởng Của Conan Doyle
Chương 6
Tôi đã kể câu chuyện khi tôi bị bắt, và không ai muốn nghe tôi nói cả. Rồi tôi đã nhắc lại chuyện đó ở phiên tòa: nói tất cả, đúng hệt như sự việc đã xảy ra, không thêm, không bớt một chữ nào. Tôi đã nói hết sự thật, tôi xin thề đúng vậy? Tất cả những gì mà phu nhân Mannering đã nói, tất cả những gì mà tôi đã nói và đã làm, tôi đã kể lại không thay một dấu phẩy, và tôi đã được lợi lộc gì trong vụ này? “Phạm nhân đã mải mê trong một lời khai lan man và không đúng sự thật, không thể tin được vì các chi tiết của nó, và không dựa trên một sự khởi đầu nào của những bằng chứng hỗ trợ”. Đó là tin mà một nhật báo ở Luân Đôn đã loan đi. Những nhật báo khác thì lại làm như tôi không tự bào chữa cho mình. Tuy là chính mắt tôi đã trông thấy ngài Mannering bị ám sát, và tôi cũng vô tội trong vụ án này như bất cứ một ủy viên nào trong bồi thẩm đoàn đã kết tội tôi. Thưa ngài, ngài là người tiếp nhận đơn xin ân xá của các phạm nhân. Tất cả tùy thuộc vào ngài. Tôi chỉ xin ngài một điều: đọc lá đơn của tôi, chỉ cần đọc nó thôi, rồi thực hiện một cuộc điều tra nhỏ về tính tình của vị “phu nhân” Mannering này, để xem bà ấy có giữ được cái danh hiệu mà bà ấy đã mang từ ba năm trước, khi tôi gặp bà ấy để chuốc lấy tù tội và sự tan nát của đời tôi. Ngài sẽ có thể giao vụ điều tra này cho một thám tử tư hay một người của tòa án; ngài sẽ mau chóng biết rõ đầy đủ về sự việc để hiểu rằng câu chuyện của tôi là đúng sự thật. Xin ngài hãy nghĩ tới sự vinh quang mà ngài sẽ đạt được nếu tất cả các nhật báo đều loan tin rằng một vụ án bất công không thể dung thứ được chắc chắn sẽ xảy ra nếu không có lòng kiên trì và sự tinh tế của ngài. Đó sẽ là phần thưởng của ngài, vì tôi nghèo túng và tôi không thể biếu tặng ngài một thứ gì. Nhưng nếu ngài khoanh tay ngồi yên, thì ngài sẽ có thể không bao giờ thấy được một giấc ngủ ngon trên giường! Sẽ chẳng có đêm nào trôi qua mà ngài không thấy bị ám ảnh bởi ý nghĩ về một con người đang chết dần, chết mòn trong nhà tù vì ngài đã không làm tròn nhiệm vụ mà ngài được giao phó! Nhưng thưa ngài, ngài sẽ làm tròn nhiệm vụ đó, tôi tin chắc ở điều này. Ngài chỉ cần làm một hay hai cuộc điều tra nhỏ, và ngài tự nhắc nhở mình rằng kẻ duy nhất được hưởng lợi trong vụ án mạng là phu nhân Mannering, vì vụ án mạng đã làm cho một người đàn bà khốn khổ trở thành một góa phụ giàu sang. Tôi đã đặt vào tay ngài một đầu mối. Ngài chỉ cần đi theo nó; ngài sẽ thấy nó dẫn ngài tới nơi nào. Thưa ngài, xin ngài lưu ý rõ ràng là tôi không kêu ca gì về các việc liên quan tới vụ trộm. Tôi không ta thán gì về những điều mà tôi đáng phải chịu, và cho tới nay tôi chưa phải nhận hình phạt nào nhiều hơn là hình phạt mà tôi đáng phải chịu. Quả thật là đã có một vụ trộm và ba năm tù của tôi là để đền tội đó. Trong phiên tòa, người ta chỉ ra rằng tôi đã tham dự vào vụ của Merton Cross, và rằng tôi đã ngồi tù một năm vì chuyện đó, đó là lý do tại sao lời khai của tôi đã được tiếp nhận một cách tệ hại như thế. Một kẻ tái phạm thì bao giờ cũng bị tình nghi. Tôi nhìn nhận vụ ăn trộm. Nhưng khi người ta nói với tôi về vụ án mạng đã khiến tôi bị kết án tù chung thân (và bất cứ một vị quan tòa nào ngoài ngài James, đều rất có thể đưa tôi lên đoạn đầu đài) thì tôi trả lời tôi không dính líu gì trong vụ này và tôi vô tội. Bây giờ tôi sẽ trở lại cái đêm hôm 13 tháng 12 năm 1894, và tôi sẽ kể lại một cách chính xác với ngài về những gì đã xảy ra. Nếu tôi nói sai sự thật một chút nào thì xin bàn tay của Thượng Đế hãy giết chết tôi đi. Vào khoảng giữa mùa hè, tôi đi tới Bristol để tìm việc làm, nhưng tôi chợt nảy ra ý nghĩ là tôi sẽ có thể xoay xở được ở Portsmouth, vì tôi là một thợ máy giỏi; vì vậy tôi đi ngang qua miền nam nước Anh, bằng cách nhận các công việc làm trên đường đi mỗi khi mà tôi kiếm được việc làm. Tôi cố gắng để khỏi có những sự phiền muộn, vì tôi đã đền tội một năm trong nhà tù ở Exeter, và điều đó cũng đủ với tôi rồi. Nhưng không có gì khó khăn bằng sự đi tìm việc làm khi mà tên của mình đã bị một dấu chữ thập đen dính vào; suýt nữa thì tôi đã bị chết đói. Sau cùng, sau khi trải qua mười ngày đi chặt củi và đập đá vụn để kiếm một đồng lương chết đói, tôi đã tới gần Salisbury với hai đồng bạc trong túi, và một lòng kiên nhẫn cũng tồi tệ như đôi giày của tôi vậy. Trên đường đi, khoảng giữa Blanford và Salisbury, có một quán rượu với tấm bảng hiệu “Thiện chí”. Tối hôm đó, tôi thuê một cái giường ở quán rượu này. Tôi ngồi có một mình trong tửu quán, một ít lâu trước giờ đóng cửa, khi chủ quán, một người tên là Allen, đi tới ngồi cạnh tôi và bắt đầu nói với tôi về những chuyện tầm phào trong xứ. Đó là một người thích nói và muốn có người nghe hắn nói; tôi là kẻ chẳng có việc gì để làm, tôi ngồi lại đó để hút thuốc trước một bình rượu bia mà hắn đem cho tôi. Tôi đã nghe hắn nói một cách lơ đãng, cho tới lúc hắn bắt đầu nói ba hoa (hình như ma quỷ nhập vào hắn) về những nhà đại phú ở lâu đài Mannering. Tôi hỏi: - Đó là cái nhà lớn ở mạn bên phải trước khi tới ngôi làng phải không? Cái nhà nằm giữa một hoa viên tư phải không? - Đúng thế! Tôi sẽ nhắc lại hết cuộc nói chuyện của chúng tôi để ngài thấy rằng tôi nói đúng sự thật và tôi không giấu ngài một điều gì. - Tòa nhà trắng dài với những cây cột. Ở cạnh con đường Blandford. Vâng, tôi đã để ý tới nó khi đi qua; tôi đã tự nhủ một cách rất ngu xuẩn rằng đó là một căn nhà rất dễ ăn trộm với một dãy dài các cửa sổ lớn và những cửa lớn lồng kính. Tôi đã xua đuổi ý nghĩ này, và nay thì anh chàng chủ quán lại nhắc tới cái nhà đó với câu chuyện những nhà phú hào cư ngụ tại lâu đài Mannering. Tôi không nói gì cả, nhưng tôi lắng tai nghe, và làm như một việc khẩn thiết, hắn ta quay trở lại câu chuyện. - Lúc còn trẻ, ông ta đã bần tiện rồi. Đó, anh nghĩ là với tuổi tác ông ta vẫn không cải đổi gì cả. Tuy vậy, với tiền bạc của ông ta, ông ta đã làm nhiều việc không đến nỗi tệ lắm. Tôi hỏi: - Ông ấy đã có thể làm được việc gì, với tiền bạc mà ông ấy không dám tiêu pha? - Hà, ông ta đã có thể mua được người đàn bà đẹp nhất nước Anh! Đó không phải là điều quá tệ. Cô ấy tưởng tượng là cô ấy sẽ có tiền bạc tiêu xài; hôm nay thì cô ấy đã vỡ mộng rồi. - Cô ấy là ai vậy? Tôi đã đặt những câu hỏi, chỉ là để có chuyện mà nói thôi. - Một cô gái cầu bơ, cầu bất trước khi được nhà quý tộc già cưới làm vợ. Cô ta từ Luân Đôn tới. Một vài người nói chắc rằng cô ấy là diễn viên, nhưng không ai chứng thực được điều này. Nhà quý tộc già vắng nhà trong một năm. Khi ông ta trở về, ông ta dẫn theo một phụ nữ trẻ, người mà từ đó không ra khỏi tòa lâu đài nữa. Stephens, người đầu bếp, đã có lần kể lại với tôi rằng cô ấy là ánh sáng trong căn nhà khi cô ấy tới đó nhưng với những cung cách bần tiện và kiêu căng của ông chồng, với sự cô độc bao quanh ông ta (vì ông ta ghét tiếp khách) và với lời nói khắc bạc của nhà quý tộc (vì ông ta có một cái lưỡi như nọc ong vò vẽ), tất cả cuộc sống bây giờ hình như đã xa lánh cô ấy: cô ấy trở nên xanh xao, trầm lặng, suốt ngày đi thơ thẩn trên những con đường quê, lòng nặng ưu phiền. Cũng có nhiều người nói rằng cô ấy yêu một người đàn ông khác, rằng cô ấy đã không cầm lòng được trước sự cám dỗ của tiền tài, và bây giờ thì cô ấy trở nên tiều tụy buồn phiền vì cô ấy đã mất người yêu mà cũng chả có giàu sang. Bất kể tiền bạc của chồng, cô ấy là người đàn bà nghèo nhất trong giáo xứ. Thưa ngài, chắc ngài hiểu rõ rằng những chuyện cãi cọ giữa một nhà quý tộc và một bà phu nhân chẳng ăn nhằm gì đến tôi cả. Việc cô ấy căm ghét tiếng nói của ông chồng hoặc ông ta làm cô ấy bực bội vì những lời mai mỉa, chế giễu với hy vọng là làm hủy hoại tâm hồn cô ấy, hoặc là ông ta nói với cô ấy như chưa từng bao giờ nói như vậy với một người trong bọn tôi tớ của ông ta, có thể làm tôi bận tâm ư? Gã chủ quán đã kể cho tôi nghe hàng lô chuyện ở đó, nhưng chúng đã ra khỏi đầu óc tôi, vì chúng không liên can gì tới tôi. Ngược lại, điều tôi muốn biết là tài sản của nhà quý tộc Mannering gồm những thứ gì? Những chứng khoán, những cổ phần đều chỉ là những giấy tờ và là nguồn gốc của tai họa nhiều hơn là lợi lộc cho kẻ nào chiếm đoạt chúng. Trái lại, quý kim và các đồ nữ trang mới đáng với sự mạo hiểm. Như thể hắn ta đã đoán được tất cả ý nghĩ của tôi, gã chủ quán nói với tôi về bộ sưu tập lớn lao các huy chương bằng vàng của nhà quý tộc Mannering; hắn nói với tôi rằng khắp trên thế giới không có bộ sưu tập nào như vậy; người ta đã tính rằng nếu đem bỏ chúng vào một cái bao thì người lực lưỡng nhất trong giáo xứ cũng không nâng nổi nó. Tới lúc đó thì vợ hắn gọi hắn đi ngủ; chúng tôi chia tay nhau. Thưa ngài, không phải là tôi đang tự biện hộ cho tôi, nhưng tôi xin ngài suy xét lại các sự việc, và xin hỏi ngài rằng có người nào lại bị cám dỗ một cách tàn bạo hơn tôi nữa. Tôi nhìn nhận rằng rất ít người có thể chống cự lại được. Đêm hôm đó tôi nằm duỗi dài trên giường, không chút hy vọng mà cũng chẳng có công việc làm, với một đồng bạc cuối cùng trong túi. Tôi đã cố sức làm người lương thiện: những người lương thiện đã quay lưng lại với tôi; họ quở trách tôi đã là một tên ăn cắp và đồng thời họ đẩy tôi trở lại thành một kẻ ăn cắp. Tôi đã dấn thân vào dòng nước; tôi không thể ra thoát khỏi nữa. Rồi thì ở nơi đó tôi đã gặp cơ hội như vậy. Một tòa nhà lớn với tất cả những cửa sổ của nó, những huy chương bằng vàng là thứ dễ nấu chảy ra, y như là để một miếng bánh trước một kẻ đang đói mà nghĩ rằng hắn sẽ không nhai ngấu nghiến miếng bánh đó. Tôi đã cưỡng lại được một lúc, nhưng vô hiệu. Tôi ngồi dậy, và tôi thề rằng, ngay tối hôm nay, hoặc là tôi sẽ giàu có và tôi sẽ có được các phương cách để chào vĩnh biệt tội ác, hoặc là những cái còng lại một lần nữa khép lại trên cổ tay tôi. Tôi mặc quần áo vào tôi đặt một đồng bạc trên bàn (vì gã chủ quán đã đối xử tử tế với tôi và tôi không muốn lường gạt hắn). Tôi đi ra bằng ngả cửa sổ và tôi thấy mình đứng trong vườn của quán rượu. Một bức tường cao bao quanh khu vườn. Tôi phải vất vả lắm để leo lên tường; nhưng khi đã sang tới bên kia tường thì mọi việc đã dễ dàng. Tôi đã không gặp một người nào trên đường đi, và tấm lưới sắt của ngõ vào để mở ngỏ. Không có gì động đậy ở nhà của người gác cổng. Trăng sáng vằng vặc, xuyên qua một vòm cong các cây cối, tôi nhận rõ tòa nhà lớn màu trắng. Tôi đi vào khoảng bốn trăm mét, và tôi đã tới trước cái cửa ở bên cạnh lối đi; nấp mình trong bóng tối, tôi quan sát tòa nhà dài với những cửa sổ lấp lánh dưới ánh sáng trắng như bạc. Tôi tự hỏi tôi sẽ tìm thấy lối vào dễ nhất ở chỗ nào đây, cái cửa sổ ở chỗ góc cho tôi cảm tưởng là nó ở nơi khuất nẻo nhất vì cây trường xuân rủ xuống từng chùm rậm rạp khắp chung quanh. Tôi bước lại phía cái cửa số này trong khi lẩn dưới các cây cối, rồi tôi bò đi dưới bóng của cái nhà. Một con chó sủa lên, co kéo sợi dây xích của nó; tôi đợi cho nó nằm im; tôi lại tiến bước một cách lén lút, và cuối cùng tôi đã đi tới dưới cái cửa sổ mà tôi đã ghi nhớ. Thật là đáng ngạc nhiên khi thấy ở miền quê mọi người thường lơ là, vô tâm? Tưởng rằng ở xa thành thị, người ta không bao giờ nghĩ tới những tên ăn trộm. Thật đúng là nhứ một con quỷ khốn khổ khi bàn tay nó đặt lên cánh cửa, mở nó ra không một chút khó khăn. Trong trường hợp của tôi thì không phải hoàn toàn đơn giản như vậy, nhưng cái cửa sổ (một cái cửa sổ có cánh sập xuống) lại không cài chốt; tôi mở nó bằng cách dùng một lưỡi dao lớn. Tôi nâng nó lên, tôi nhét con dao vào giữa các tấm cánh cửa, tôi đẩy chúng về phía trước và tôi tụt xuống căn phòng. - Chào ngài! Ngài tới thật đúng lúc - một giọng nói cất lên. Trong đời tôi, đã có lúc tôi giật mình đến nẩy người lên, nhưng chưa bao giờ tôi bị giật nảy lên đến như vậy. Ở trong tầm các ngón tay của tôi, ngay trước các cánh cửa sổ mở ngỏ, một người đàn bà đứng không nhúc nhích, tay cầm một cây nến nhỏ, người cao lớn, mảnh mai, cô ta đứng thẳng người, cô ta có một khuôn mặt trắng, đẹp trông như được tạc bằng cẩm thạch; nhưng tóc và mắt thì đen sẫm như màn đêm. Cô ta mặc một áo ngủ màu trắng dài tới gót chân. Với cái áo đó và bộ mặt cũng trắng như vậy, cô ta nom giống như một con ma từ trên trời bước xuống đứng trước mặt tôi. Hai đầu gối tôi lẩy bẩy đụng vào nhau, tôi phải vịn vào một cánh cửa sổ để khỏi sụm xuống. Nếu tôi còn đủ sức lực thì tôi đã quay đầu chạy trốn. Nhưng tôi chỉ có thể đứng nhìn cô ta, miệng há hốc ra. Bất chợt cô ta đã kéo tôi về với thực tế. Cô ta nói với tôi: - Đừng có sợ...!. Đó là những lời kỳ lạ để một bà chủ nhà nói với một tên ăm trộm. - Tôi đã nhìn thấy anh từ cửa sổ phòng của tôi trong lúc anh ẩn nấp dưới các cây cối. Tôi đã đi xuống và đã nghe thấy anh ở phía bên kia cái cửa sổ. Tôi sẽ tự ý mở cửa cho anh nếu anh đợi thêm một lúc, nhưng khi tôi đến nơi thì anh đã tự một mình xoay xở được. Tay tôi còn cầm con dao dài có khớp hãm mà tôi đã dùng để mở cánh cửa sổ. Tôi đã không cạo mặt, và trên hai má tôi có đầy bụi bặm trong tám ngày đi đường ít người dám nhìn thẳng vào mặt tôi lúc chỉ có hai người, vào một giờ đêm như thế này. Người đàn bà này thì trái lại, nếu cô ta đã có hẹn với tình lang, thì chắc cô ta cũng không nhìn hắn bằng con mắt đáng yêu hơn. Cô ta đặt một bàn tay lên cánh tay tôi, và cô ta kéo tôi vào bên trong căn phòng. - Thưa bà, thế này là nghĩa làm sao? Xin chớ đem những sự cám dỗ nhỏ nhen mà thử thách tôi. Tôi đã cất giọng nói lớn, và khi tôi cố sức nói như vậy thì tôi có thể có vẻ rất hung dữ. - Nếu bà muốn giở trò lừa gạt tôi, thì mặc kệ bà! Tôi chìa con dao ra với cô ta. Cô ta trả lời: - Tôi không muốn lừa gạt anh. Ngược lại, tôi là bạn của anh và tôi muốn giúp đỡ anh. - Thưa bà, xin thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi khó tin được việc này. Tại sao bà lại muốn giúp đỡ tôi? - Vì những lý do riêng tư... Bỗng nhiên, với những con mắt đen sáng rực trên khuôn mặt trắng, cô ta gần như gào lên với tôi: - Vì rằng tôi hận ông ấy, tôi hận ông ấy, tôi hận ông ấy! Bây giờ thì anh hiểu rồi chứ? - Vì rằng tôi hận ông ấy, tôi hận ông ấy, tôi hận ông ấy! Bây giờ thì anh hiểu rồi chứ? Tôi nhớ lại những điều mà gã chủ quán đã nói với tôi và rồi tôi đã hiểu. Tôi nhìn vào mặt cô ta: phải, tôi có thể tin ở cô ta? Cô ta muốn trả thù người chồng. Cô ta muốn đánh lão ấy vào chỗ trọng yếu nhất: vào cái túi tiền. Cô ta hận lão đến nỗi chịu hạ mình đặt tin tưởng vào một người như tôi, nếu cô ta có thể đạt được mục đích. Trong đời tôi, tôi đã từng thù hận nhiều người, nhưng tôi không nghĩ rằng tôi đã hiểu được thế nào là hận thù, trước khi nhìn thấy bộ mặt của cô ta dưới ánh sáng của cây nến. - Bây giờ thì anh tin tôi rồi chứ? - cô ta hỏi tôi trong lúc lại một lần nữa đặt bàn tay dịu dàng lên cánh tay tôi. - Vâng, thưa phu nhân. - Thế ra anh biết tôi à? - Tôi đoán ra cô là ai. - Tôi biết rằng sự bất hạnh của tôi là câu chuyện được đồn đại trong khắp xứ. Nhưng ông ấy có bận tâm về việc đó không? Ông ấy chỉ bận tâm về một điều trên đời này, và điều đó là thứ mà anh sẽ lấy trộm của ông ấy ngay đêm hôm nay. Anh có một cái túi không? - Thưa phu nhân, không. - Hãy đóng các cánh cửa sổ lại. Không ai có thể nhìn thấy ánh sáng. Anh được an toàn triệt để. Bọn đầy tớ ngủ ở chái nhà bên kia. Tôi sẽ chỉ cho anh thấy nơi để những đồ vật quý giá nhất. Anh sẽ không thể mang đi tất cả: anh sẽ chọn lựa những thứ đẹp nhất. Căn phòng mà tôi lẻn vào thì dài và có cái trần thấp; những tấm thảm, những tấm lông thú nằm rải rác trên một sàn ván đẹp, đánh xi bóng loáng. Có những tủ kính nhỏ. Những bức tường được trang trí với các cây giáo, các thanh gươm, các mái chèo và những đồ vật khác thường được bày trong các viện bảo tàng. Cũng có cả những thứ y phục kỳ lạ đã được mang về từ các nước xa lạ; vị phu nhân cúi mình xuống và nhặt một cái túi bằng da đen. - Cái túi để nằm ngủ này sẽ được việc - cô ta nói - Hãy theo tôi, tôi sẽ chỉ cho anh rõ nơi cất các huy chương. Thoạt giống như một giấc mộng: người đàn bà cao lớn mặc toàn màu trắng này, vốn là nữ chủ nhân của tòa nhà, lại tiếp tay cho tôi ăn trộm nhà cô ta?... Tôi đã định cười phá lên, nếu trên khuôn mặt nhợt nhạt của cô ta tôi không phát hiện ra một điều gì làm giá lạnh nụ cười trên môi tôi. Cô ta đi qua trước mặt tôi như một hồn ma, với cây nến trong tay, và tôi đi theo cô ta với cái túi trong tay tận tới cái cửa lớn ở phía cuối phòng bảo tàng này. Cái cửa được khóa kín, nhưng chìa khóa nằm trong ổ khóa; cô ta mở cửa ra và chúng tôi đi vào. Căn phòng kế cận thì nhỏ bé, có treo những tấm màn vẽ. Trên một tấm là hình một cuộc săn hươu, tôi nhớ rất rõ về tấm màn này, và dưới ánh sáng của cây nến người ta có thể nghĩ rằng những con chó và những con ngựa từ trong tường xông ra. Vật duy nhất khác trong căn phòng là một dãy tủ kính bằng gỗ hồ đào, với những trang trí bằng đồng và những mặt trên bằng kính. Thoạt vừa nhìn tôi đã nhận thấy rất nhiều huy chương bằng vàng, được xếp thành từng hàng, trong số đó một vài cái lớn bằng những cái đĩa và có bề dày tới ba hay bốn phân tây; chúng được đặt trên nhung đỏ; ánh vàng của chúng lấp lóe trong bóng tối. Tôi thấy các ngón tay ngứa ngáy và tôi luồn con dao vào ổ khóa của một trong các tủ kính để làm bật nó ra. - Đợi một lát. - cô ta nói với tôi trong khi lại bắt đầu đặt bàn tay lên cánh tay tôi - Anh có thể tìm được thứ quý hơn. Tôi đáp: - Chỗ này là quá đủ cho tôi rồi. Và tôi vô vàn cảm ơn phu nhân về sự giúp đỡ tôi. Nhưng cô ta vẫn khăng khăng: - Tôi nói với anh là còn nhiều thứ quý giá hơn. Những vị vua chúa bằng vàng sẽ có lợi cho anh nhiều hơn là những tấm huy chương này. - Vâng, đúng thế! Các vị vua chúa bằng vàng, còn thứ gì quý hơn nữa. - Được rồi. Ông ấy ngủ ngay bên trên đầu chúng ta. Ta chỉ cần lên một cầu thang nhỏ. Bên dưới giường của ông ấy, ông ấy giấu một cái hòm nhỏ đựng khá nhiều tiền đủ nhét đầy cái túi của anh. - Nhưng tôi làm thế nào để lấy nó mà không làm ông ấy thức giấc? - Có gì là quan trọng nếu ông ấy thức giấc?!... Cô ấy nhìn chằm chằm vào mặt tôi khi nói câu này. - Anh biết rõ cách ngăn cản không cho ông ấy kêu lên chứ? - Dạ không, thưa bà! Không có chuyện đó. Tôi không làm được đâu - Tùy ý anh đó! Lúc mới gặp tôi cứ nghĩ anh là một người cứng cỏi, nhưng tôi thấy là tôi đã lầm. Nếu anh sợ hãi một ông già thì tất nhiên là để mặc xác số vàng bên dưới giường ông ấy. Anh là vị quan tòa tốt hơn tôi về các việc riêng của anh, nhưng tôi nghĩ rằng tốt nhất là anh nên chọn một nghề khác. - Tôi không muốn có một vụ sát nhân đè nặng lên lương tâm tôi. - Anh có thể khống chế mà không làm tổn thương ông ấy. Tôi không bao giờ nói tới việc giết người. Tiền để ở dưới giường. Nhưng nếu anh sợ thì tốt nhất là anh đừng mạo hiểm làm việc gì cả. Đó là cách thức mà cô ta đã tác động tôi: một phần với sự mai mỉa của cô ta, một phần với số vàng mà cô ta đem ra làm lóe mắt tôi. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ nhượng bộ và tôi sẽ trở nên liều lĩnh tại nhà của nhà quý tộc già nua nếu tôi không chú ý tới đôi mắt của cô ta: đôi mắt này đã phụ giúp cho cuộc đấu tranh nội tâm của tôi bằng một sự biểu lộ quá gian xảo, quá hung dữ khiến tôi hiểu ngay rằng cô ta cố gắng làm tôi trở thành công cụ cho sự trả thù của cô ta, và cô ta không để cho tôi một sự chọn lựa nào khác ngoài việc loại trừ ông chồng ra khỏi tình trạng có thể làm hại cô ta hoặc để cho tôi bị ông ấy bắt được. Cô ta đã cảm thấy rõ là ý đồ đã bị phát lộ, và tức thì ban tặng cho tôi một nụ cười thân mật; nhưng đã quá muộn rồi; tôi đã có một sự cảnh giác của tôi. Tôi bèn nói. - Tôi không muốn lên lầu. Tôi đã có đủ mọi thứ tôi cần đây rồi. Cô ta đã làm tôi choáng người vì sự khinh bỉ của cô ta. - Được lắm. Anh có thể lấy những cái huy chương này đi. Tôi nghĩ rằng anh nên bắt đầu từ phía bên kia. Chắc chắn là khi đã nấu chảy ra rồi thì tất cả chúng đều cùng có một giá trị như nhau thôi, nhưng các huy chương này là những thứ hiếm có hơn do đó là thứ quý báu hơn đối với ông ấy, không cần phải bẻ các ổ khóa. Nhấn mạnh vào cái nút đồng này, anh sẽ chuyển động một cái lò so bí mật. Kia kìa! Hãy lấy cái này trước: đó là con người trong mắt lão ta... Cô ấy mở một cái tủ kính; tất cả những đồ vật đẹp đẽ được phơi bày ra trước mặt tôi. Tôi đã dặt tay lên tấm huy chương mà cô ta vừa chỉ thì bỗng nhiên tôi thấy nét mặt cô ta thay đổi, và cô ta giơ một ngón tay. - Suỵt! Cái gì vậy?... Trong sự im lặng của tòa nhà chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân lê đi rất nhẹ, ngay tức thì cô ta đóng tủ kính lại. - Đó là chồng tôi! Anh đừng sợ! Mọi việc sẽ tốt đẹp thôi. Tôi sẽ dàn xếp mọi việc. Chỗ này? Mau lên, đằng sau tấm thảm!... Cô ta đẩy tôi vào phía sau những tấm màn sơn, tôi và cái túi rỗng không trong tay - rồi cô ta cầm lấy cây nến và nhanh nhẹn đi trở vào phòng bảo tàng, nơi mà chúng tôi vừa ra khỏi. Từ chỗ tôi đứng, tôi có thể nhìn thấy cô ta qua cái cửa mở ngỏ. Cô ta nói lớn: Cô ta nói lớn: - Có phải mình không, Robert? Ánh sáng của một cây nến lóe lên phía sau cái cửa của phòng bảo tàng; tiếng bước chân tới gần. Rồi tôi thấy hiện ra trên bậc cửa một bộ mặt lớn, nặng nề, đầy những vết nhăn và những nếp da bùng nhùng mỡ, với một cái mũi cong khoằm có mang kính gọng vàng. Ông ta rất cao lớn to. Với cái áo ngủ, ông ta đứng che kín cả cái cửa - ông ta có mái tóc bạc, xoắn lại thành từng cuộn, nhưng ông ta không có râu. Miệng ông ta thì nhỏ, mỏng, chúm lại, bị mờ nhạt đi dưới sự uy hiếp của cái mũi ngạo nghễ. Ông ta đứng yên bất động, quan sát vợ với một cái nhìn xa lạ, hiểm ác mới thoạt nhìn tôi đã hiểu ngay là ông ta biểu lộ với vợ những tình cảm mà cô ta đã dành cho chồng. Ông ta hỏi vợ: - Thế này là nghĩa làm sao? Một sự nổi hứng mới à? Tại sao lại có cuộc đi dạo chơi ban đêm này trong nhà? Làm sao mà cô lại không đi ngủ? - Tôi không thể ngủ được... Cô ta nói một giọng chán chường, thê thảm. Nếu ngày xưa cô ta đã lên sân khấu, thì hắn cô ta đã không quên nghề nghiệp của mình. - Tôi có cần gợi ý cho cô là một lương tâm trong sáng sẽ giúp một cách rất hiệu lực cho giấc ngủ không? Ông ta lại lên tiếng với cũng một giọng chế nhạo như vậy Cô ta trả lời: - Tôi không tin điều đó, bởi vì ông vẫn có những giấc ngủ rất ngon mà. - Trong suốt cuộc đời tôi, tôi chỉ xấu hổ về một chuyện thôi... - Tóc ông ta dựng đứng lên lởm chởm vì tức giận; ông ta nom giống như một con ác điểu. - Cô biết hơn ai hết là tôi nói việc gì. Và sự trừng phạt đã theo sau lỗi lầm. - Đối với tôi, cũng đúng như thế: chớ quên điều này. - Cô còn phàn nàn cái gì? Chính tôi đã tự hạ thấp mình xuống; còn cô, cô đã được cao sang. - Cao sang? - Đúng vậy! Tôi nghĩ rằng cô sẽ không chối cãi là cô đã được mãn nguyện khi tới đây, tới lâu đài Mannering. Tôi đã phạm sai lầm lớn khi đem cô ta ra khỏi môi trường thật sự của cô. - Nếu đúng là ông nghĩ như vậy, tại sao chúng ta không chia tay nhau? - Bởi vì một sự bất hạnh riêng tư còn tốt hơn là một sự nhục nhã trước mọi người. Bởi vì ngấm ngầm đau khổ về một lỗi lầm còn dễ hơn là thú nhận nó. Và cũng bởi vì tôi thích có cô ở trước mắt và biết rằng cô không thể quay trở lại với hắn. - Đồ vô lại! Đồ hèn nhát? - Đúng vậy, Milady. Tôi biết tham vọng thầm kín của cô, nhưng khi tôi còn sống, nó sẽ không thực hiện được đâu và rất có thể là tôi sẽ có những cách xếp đặt để sau khi chết rồi tôi vẫn còn canh chừng để khi cô trở về sống với hắn mà không có một đồng xu dính túi. Cô và anh chàng Edward yêu quí của cô, không bao giờ các người được toại nguyện phung phí tiền bạc của tôi, phải nói cho cô biết ý định này, Milady ạ. Tại sao các ô cửa và cửa số lại mở ngỏ thế này? - Tôi thấy căn phòng có mùi hôi. - Đó không phải là sự khôn ngoan. Biết đâu lại không có một tên du đãng đi dạo quanh đây? Cô có biết rằng bộ sưu tập huy chương của tôi có giá trị hơn bất cứ bộ sưu tập nào trên thế giới không? Cô cũng để cửa lớn mở ngỏ nữa. Ai sẽ có thể ngăn cản được một tên ăn cắp lấy trộm đồ của tôi? - Có tôi ở đây mà. - Tôi biết điều đó. Tôi đã nghe thấy cô đi trong phòng dể huy chương; đó là lý do tại sao tôi đi xuống. Cô đã làm gì ở đó? - Tôi xem các tấm huy chương. Tôi còn có thể làm gì khác được? - Sự hiếu kỳ này là mới mẻ đấy! Ông ta ném cho vợ một cái nhìn nghi ngờ và ông ta đi vào phòng nhỏ chứa các huy chương. Cô ta đi theo chồng. Ngay vào lúc đó tôi nhìn thấy một vật làm tôi phát run lên. Tôi đã đế con dao có khớp hãm lưỡi mở sẵn trên mặt tủ kính. Nó nằm phơi ra đó, mắt thường cũng nhìn thấy được. Cô ta đã nhìn thấy con dao trước ông ta, và với tất cả sự sắc bén của một người đàn bà, cô ấy nâng cao cây nến lên để ngọn lửa nến len vào khoảng giữa con dao và cặp mắt của nhà quí tộc Mannering. Rồi tay trái cô ta cầm lấy con dao và áp nó sát vào áo ngủ của mình không để ông ta nhìn thấy. Ông ta kiểm soát các tủ kính, lần lượt từng cái một; có một lúc nào đó tôi đã có thể đặt bàn tay tôi lên cái mũi dài của ông ta. Như không có gì chứng tỏ là có người đã đụng chạm tới các tấm huy chương, ông ta đi ra, kéo lê hai chân tới gian phòng lớn.. Và bây giờ tôi phải nói tới một điều mà tôi nghe thấy chớ không phải là nhìn thấy, nhưng tôi xin thề với ngài, cũng đúng thật như một ngày nào mà tôi trình diện trước đấng tối cao, là tôi sẽ nói sự thật với ngài. Khi họ đi vào phòng bảo tàng, tôi trông thấy ông ta đặt cây nến trên góc bàn, rồi ông ta ngồi xuống, nhưng vừa đúng ngoài tầm nhìn của tôi. Cô ta thì đứng sau lưng ông ta, theo như tôi có thể biết vì cây nến chiếu ra bóng của nhà quí tộc già trên sàn nhà trước mặt ông ta. Lúc đó ông ta lại nói đến gã đàn ông mà ông ta gọi tên là Edward, ông ta nói nhỏ, và tôi không hiểu tất cả nhưng theo những điều tôi nghe được thì giống như cô ta bị những ngọn roi quật vào mình... Thoạt đầu cô ta trả lời bằng những từ ngữ rất bén nhọn, rồi thì cô ta im tiếng; ông ta cứ tiếp tục làm tổn thương vợ, chửi mắng, hành hạ vợ bằng giọng nói lạnh lùng và chế nhạo; tôi tự hỏi tại sao cô ta lại có thể giữ được im lặng khi nghe ông ta nói thế. Bỗng nhiên tôi nghe thấy ông ta nói với một giọng sắc bén: - Đừng đứng đằng sau tôi nữa! Buông cổ áo tôi ra! Cái gì thế cô muốn đánh tôi à? Đúng là tôi đã nghe thấy một tiếng động giống như một nhát đánh một thứ tiếng đục và nhẹ, rồi tôi nghe thấy ông ta kêu lớn: “Lạy chúa tôi, nhưng đây là máu mà!” ông ta cựa quậy hai bàn chân như muốn đứng lên. Lúc đó tôi lại nghe thấy một nhát đánh nữa, và ông ta thét lên: “ôi, đồ quỉ cái”. Và sau một tiếng đổ vật trên sàn nhà và tiếng một chất lỏng chảy, sự im lặng lại bao trùm. Tôi vội vã đi ra khỏi chỗ ẩn nấp và tôi chạy vào gian phòng lớn, tôi run rẩy cả chân tay; tôi bị kinh hoảng. Nhà quí tộc già đã tụt xuống khỏi cái ghế và trên lưng ông ta cái áo ngủ, làm thành một cái bướu khủng khiếp. Cái đầu ông ta vẫn còn đeo kính, lăn sang một bên; cái miệng nhỏ bé của ông ta há hốc ra như một con cá chết. Tôi không trông thấy máu chảy ra từ nơi nào, nhưng tôi nghe thấy nó rơi lộp độp trên sàn nhà. Còn cô ta? Kia kìa, môi cô ta mím chặt, đôi mắt long lanh, và lúc này thì cặp má hồng ửng lên. Cô ta chỉ thiếu một chút sắc hồng nhạt này để trở thành người đàn bà xinh dẹp nhất mà tôi đã từng thấy. Tôi ấp úng nói: - Cô đã giết ông ta? - Phải, - cô ta trả lời tôi với sự điềm tĩnh cố hữu, - Bây giờ tôi đã giết ông ta. Tôi hỏi: - Cô sẽ làm thế nào? Cũng chắc chắn như hai với hai là bốn, cô sẽ bị bắt giữ về tội sát nhân. - Cô sẽ làm thế nào? Cũng chắc chắn như hai với hai là bốn, cô sẽ bị bắt giữ về tội sát nhân. - Anh khỏi phải lo sợ cho tôi. Đời sống chẳng có gì làm tôi quan tâm cả; sự sống không quan trọng đối với tôi. Hãy giúp tôi một tay để đặt lại ông ta lên ghế, nhìn như thế này khủng khiếp lắm! Tôi phụ giúp cô ta. Chỉ chạm vào ông ta mà người tôi đã lạnh giá như băng. Một ít máu chảy lên bàn tay tôi. Tôi buồn nôn. - Bây giờ thì hoặc là anh hay kẻ nào khác lấy những tấm huy chương này - cô ấy dõng dạc nói - Hãy lấy đi và đi khỏi! - Tôi không muốn lấy chúng. Tôi muốn đi khỏi, có thế thôi. Chưa bao giờ tôi bị dính vào một vụ như thế này. - Thật là ngu ngốc. Anh tới đây vì những tấm huy chương; chúng nằm kia, thuộc quyền sử dụng của anh. Tại sao anh không lấy? Không có ai ngăn cản việc anh lấy chúng đi. Trong tay tôi còn cầm cái túi trống rỗng. Cô ấy mở tủ kính, cả hai chúng tôi bỏ chừng một trăm tấm huy chương vào cái túi. Chúng đều nằm trong cùng một tủ kính; tôi không muốn đợi lâu hơn nữa. Tôi đi về phía cửa sổ vì không khí trong tòa nhà làm tôi ngộ độc sau những gì tôi đã trông thấy và nghe thấy. Tôi quay đầu lại. Tôi thấy cô ta vẫn đứng yên, mảnh mai, cao lớn, đài các, với cây nến trong tay, giống hệt như lúc tôi nhìn thấy cô ta lần đầu tiên Cô ta vẫy tay nói lời tạm biệt với tôi. Tôi đáp lại cô ta cũng bằng dấu hiệu đó. Tôi nhảy qua cửa sổ vào lối đi lát sỏi. Tôi cảm ơn Thượng đế là tôi có thể đặt tay lên trái tim mà thề rằng tôi đã không bao giờ phạm tội ác; nhưng có lẽ tôi sẽ không có thể thề việc này, nếu tôi đọc được ý nghĩ trong đầu người đàn bà này. Nếu tôi đoán được những gì ẩn nấp sau nụ cười cuối cùng của cô ta, thì lúc đó sẽ có hai xác chết trong gian phòng thay vì chỉ có một xác thôi. Nhưng tôi chỉ nghĩ tới một việc: Tẩu thoát để khỏi bị bắt giữ. Tôi hoàn toàn không nghĩ tới chuyện cô ta đang tròng dây thừng vào cổ tôi. Tôi chưa đi được năm bước ở bên ngoài bằng cách men theo tòa nhà và ẩn mình trong bóng tối thì tôi đã nghe thấy một tiếng la đủ sức làm thức giấc tất cả giáo xứ; rồi một tiếng thứ hai, và còn một tiếng thứ ba nữa. - Có án mạng! - cô ta kêu lớn - có án mạng! Cấp cứu! Tiếng cô ta vang lên trong sự yên tĩnh của ban đêm, và tiếng vọng lan ra khắp cả mọi nơi. Tiếng kêu rùng rợn đó, nó đã xuyên thủng đầu. tôi Trong một khoảng khắc, những ánh sáng đã hiện ra, đã chuyển động, và các cửa sổ được mở tung: không phải chỉ trong tòa nhà đằng sau tôi mà cả trong nhà người gác cửa và các chuồng ngựa trên đường đi của tôi. Như một con thỏ hoảng hốt, tôi lao mình trong lối đi và tôi chạy với hết tốc độ của đôi chân, nhưng tấm lưới sắt đã đóng lại trước khi tôi có thể tới chỗ nó. Tôi giấu cái túi đựng huy chương dưới một đống củi và tôi toan chạy trốn qua công viên, nhưng một người nào đó đã trông thấy tôi, và chả mấy lúc dã có năm, sáu người với những con chó đuổi theo tôi. Tôi náu mình sau các bụi cây; nhưng những con chó chồm lên người tôi và tôi đã rất mừng khi mọi người chạy tới, nếu không tôi đã bị chúng nuốt sống. Họ túm lấy tôi và dẫn tôi trở lại căn phòng mà tôi đã bỏ chạy khỏi đó. Người lớn tuổi nhất hỏi: - Có phải người này không, thưa phu nhân? Từ trước tôi đã biết người này là anh đầu bếp trưởng. Cô ta cúi mình bên trên xác chết, cô ta chùi mắt bằng một chiếc khăn mùi xoa, rồi quay lại phía tôi, bộ mặt của một mụ đàn bà hung ác, ôi, một nữ diễn viên tài giỏi làm sao! - Phải, đúng là nó! - Cô ta kêu lên - Ôi, thằng ăn cướp! Thằng tàn ác! Đối xử như vậy với một ông già! Trong đám người đứng quanh đó, có một người có vẻ là nhân viên cảnh sát trong làng. Ông ta đặt một bàn tay lên vai tôi, ông ta hỏi tôi: - Anh có gì để trả lời việc này? - Chính cô ấy đã giết ông ta!- Tôi gào to lên trong khi chỉ tay vào cô ta. Cô ta vẫn điềm nhiên, tiếp tục nhìn tôi với một cái nhìn tỉnh táo. Người cảnh sát nói: - Nào, anh còn, lời bào chữa khác không? Một tên trong bọn đầy tớ đã đấm tôi một cú đấm rất mạnh. - Tôi đã nói với ông là tôi nhìn thấy cô ấy giết người! Cô ấy đã đâm ông ta hai nhất bằng một con dao. Thoạt đầu cô ấy đã giúp tôi lấy trộm đồ của ông ta; rồi cô ấy giết ông ta. Tên đầy tớ muốn đánh tôi một lần nữa, nhưng cô ta đã giữ tay hắn lại. Cô ta nói thì thầm: - Đừng làm tổn thương hắn. Tôi tin rằng pháp luật sẽ đảm nhiệm việc trừng phạt hắn. - Thưa phu nhân, tôi sẽ lo việc đó! - người cảnh sát trả lời - Phu nhân đã chứng kiến rõ ràng vụ án phải không ạ? - Phải, phải! Tôi đã chính mắt nhìn thấy vụ án. Thật là khủng khiếp. Chúng tôi đã nghe thấy tiếng động và chúng tôi cùng đi xuống. ông chồng xấu số của tôi đi trước. Người này đã mở dược một tủ kính, và hắn ta đang nhét đầy cái túi da đen hắn cầm trong tay. Hắn định chạy trốn, nhưng ông chồng tôi đã bắt hắn lại; hai người đánh nhau, và hắn đã đâm ông ấy hai nhát dao găm. Hãy nhìn xem: hắn còn máu trên hai bàn tay. Nếu tôi không lầm thì con dao vẫn còn nằm trong lưng chồng tôi. - Các ông trông kìa; cô ấy có những bàn tay đẫm máu. - tôi dã kêu lên. - Cô ấy đã đỡ cái đầu của ông lớn, đồ dối trá đê tiện - gã đầu bếp cãi lại. - Và đây là cái túi mà phu nhân nói tới lúc nãy - người cảnh sát nói, ông ta vừa được một tên chăn ngựa đem tới cho cái túi mà tôi đã quẳng đi trong lúc chạy trốn. Và những tấm huy chương nằm ở bên trong. Như thế là quá đủ cho tôi rồi - tối hôm nay chúng ta hãy giừ hắn ở đây và ngày mai sẽ giải hắn tới Salisbary. Người đàn bà nói: - Đồ ma quỉ xấu xa! Về phần tôi, tôi tha thứ cho hắn về sự thương tổn hắn đã gây ra cho tôi. Ai biết được sự cám dỗ nào đã đưa đẩy hắn tới tội ác? Lương tâm của hắn và luật pháp sẽ trừng phát hắn một cách thích đáng để tôi khỏi phải nói ra những lời nguyền rủa hắn. Tôi đã không thể trả lời được câu nào, thưa ngài, tôi xin đoan chắc với ngài là tôi không thể trả lời được câu nào. Tôi bị bối rối vì sự trắng trợn của người đàn bà này. Vì sự im lặng của tôi có vẻ như đã xác nhận tất cả những điều cô ta nói, tôi đã bị người cảnh sát kéo vào trong căn hầm, tại đó tôi bị nhốt qua đêm. Đấy thưa ngài, tôi đã nói với ngài tất cả chuyện về các biến cố dẫn tới vụ giết chết nhà quí tộc Mannering bởi vợ ông ta trong đêm 14 tháng 9 năm 1894. Có lẽ ngài sẽ bác bỏ sự trình bày các biến cố của tôi, như người cảnh sát ở lâu đài Mannering, như vị quan tòa ở tòa án địa phương hoặc có lẽ ngài sẽ tìm ra một tia chân lý, điều sẽ làm ngài bận tâm, và ngài sẽ mãi mãi giữ vững thanh danh một người không lùi bước trước bất kỳ một trở ngại nào để làm sáng tỏ chân lý và sự công bằng. Thưa ngài, tôi chỉ có thể khẩn cầu với ngài, nếu ngài rửa sạch được tên tuổi tôi khỏi sự cáo buộc gian dối này, tôi sẽ đội ơn ngài cho tới hết đời. Nhưng nếu ngài bỏ rơi tôi, thì tôi xin thề với ngài là trong vòng một tháng kể từ hôm nay tôi sẽ tự treo cổ trên thanh sắt cửa sổ của tôi, và từ ngày này trở đi tôi sẽ trở về đêm nào cũng kéo giật chân ngài và tôi sẽ làm khổ ngài với khả năng một con ma có thể làm được. Điều mà tôi cầu xin ngài rất đơn giản, xin tiến hành một cuộc điều tra về người đàn bà này, canh chừng cô ta, truy tìm quá khứ của cô ta, dò hỏi xem cô ta làm gì với số tiền mà cô ta dược thừa hưởng, phối kiểm xem trong cuộc sống hiện nay của cô ta có người nào tên là Edward như tôi đã chỉ ra không. Nếu cuộc điều tra của ngài phát hiện tính cách thật sự của cô ta, nếu nó tỏ ra hỗ trợ cho câu chuyện mà tôi vừa kể lại với ngài, thì chắc chắn rằng tôi sẽ có thể tin vào lòng tốt của ngài và ngài sẽ cứu được một người vô tội. Hết
Bạn có thể dùng phím mũi tên
hoặc WASD để
lùi/sang chương