Tiếng Gọi Tình Yêu Giữa Lòng Thế Giới

Chương 04 - Phần 01 - 02



Chương 04

Phần 01

Đám tang của Aki được tổ chức vào một ngày lạnh giá cuối tháng Mười hai. Từ sáng, những đám mây màu xám đã sà xuống thấp, chẳng thấy bóng dáng mặt trời đâu. Rất nhiều bạn bè và thầy cô giáo ở trường đến dự lễ tang. Tôi chợt nhớ đến đám tang cô giáo chủ nhiệm của Aki mất vào dịp Giáng sinh năm lớp chín. Khi ấy Aki là người đọc điếu văn. Vừa tròn hai năm. Tôi không cảm nhận được quãng thời gian hai năm đó. Không dài cũng không ngắn. Tựa như tôi đã mất hết khái niệm về thời gian.

Khi một học sinh đại diện lên đọc điếu văn, trời đổ mưa đá dữ dội. Mưa khiến mọi người tham dự hơi nhốn nháo, nhưng bài điếu văn vẫn được đọc cho tới cuối. Có nhiều bạn gái òa khóc. Sau đó nghi thức thắp hương bắt đầu. Tôi thắp một nén hương, chắp tay trước bàn thờ theo đúng nghi lễ. Khi ngẩng đầu lên, tôi thấy di ảnh Aki trước mặt mình. Trong bức ảnh, Aki là một thiếu nữ đẹp tuyệt trần. Chính vì thế, cô gái ấy chẳng có chút gì giống với Aki. Hay ít ra, cô ấy không giống với Aki mà tôi biết.

Hầu hết mọi người đến viếng đều chỉ tiễn Aki ra đến cổng chùa, nhưng riêng tôi thì được đi theo đến nhà hỏa thiêu. Tôi lên chiếc minivan của công ty tang lễ cùng gia quyến. Chúng tôi chậm chạp bám theo xe chở linh cữu đang đi đằng trước. Chốc chốc lại có một cơn mưa tuyết và mỗi lần như thế người lái xe lại phải bật cần gạt mưa kính trước. Nhà hỏa thiêu nằm giữa những ngọn núi bên ngoài thị trấn. Chiếc xe bò lên một con đường núi cô quạnh có những hàng tuyết tùng. Dọc đường, chúng tôi đi qua một bãi đất có nhiều chiếc ô tô bị vứt bỏ đã biến thành sắt vụn. Đi ngang qua cả một trại gà. Ý nghĩa về một Aki được đem tới chốn cô quạnh này và sắp bị đốt thành tro bụi thật mơ hồ.

Trong tâm trí tôi chỉ có hình bóng của một Aki còn đang khỏe mạnh. Tôi đưa em về lúc chạng vạng tối của một buổi chiều thu năm lớp mười, tóc em xõa dài trên vai, làm nổi bật lên màu áo trắng. Tôi vẫn nhớ bóng tôi và em in trên bức tường bao xây bằng xi măng. Tôi vẫn nhớ em đã bơi ngửa bên cạnh tôi một ngày hè. Mí mắt em nhắm chặt trong nắng, tóc em trải dài trên mặt nước, làn da trắng nơi cổ em lấp lánh… Tôi không thể chịu nổi ý nghĩ là cơ thể ấy sẽ bị đốt thành tro bụi. Tôi mở cửa sổ xe, để không khí lạnh phả vào mặt mình. Những giọt không phải tuyết cũng không phải mưa đập vào mặt tôi rồi tan chảy. Giá như tôi có thể làm việc này, việc kia, rồi việc kia nữa cho em. Những ý nghĩ kiểu đó cứ lần lượt xuất hiện rồi tan biến như mưa tuyết.

Trong lúc thi thể em bị thiêu đốt, tôi được những người lớn chuốc rượu. Tôi thử một mình vòng ra phía sau tòa nhà. Ngay mép tường là sườn núi. Những thảm cỏ úa vàng dạo mùa đông giờ đang hồi sinh. Tro đen bị vứt lung tung ở một nơi giống như bãi rác. Xung quanh im lặng, không có tiếng người hay chim chóc. Dỏng tai lên, tôi có thể nghe thấy tiếng nồi hơi đang thiêu đốt Aki mơ hồ vọng tới. Tôi giật mình nhìn lên không trung. Trên đó có một ống khói xây bằng gạch đỏ và khói đang phả ra từ cái miệng hình vuông đầy bồ hóng.

Cảm giác thật kỳ quặc khi ngắm nhìn làn khói bốc lên từ ngọn lửa thiêu đốt người tôi yêu quý nhất đời đang lặng lẽ tỏa vào bầu trời mùa đông. Tôi đứng đấy một lúc lâu, dõi theo đám khói, lúc đen, lúc trắng. Khi những làn khói cuối cùng lẫn vào tầng mây xám, tôi thấy trái tim mình trống rỗng.

Năm tháng trôi qua, những ngày Aki và tôi ở bên nhau biến mất cùng tờ lịch cũ. Tôi dành cả tuần đầu của năm mới xem ti vi trong phòng khách. Tôi hiếm khi ra khỏi nhà. Tôi cũng không đi lễ chùa đầu năm mới. Trên ti vi, những người nổi tiếng ăn vận đẹp đẽ, hát và chơi trò chơi. Tôi không nhận ra được mặt cũng như tên của họ. Chiếc ti vi màu của tôi không có màu. Đám nghệ sĩ đang reo hò, cười nói chỉ còn là những khối hình đen trắng trong mắt tôi. Thế rồi họ tan chảy vào một khung cảnh lạ lẫm cùng với sự tĩnh lặng đến nhức óc.

Cuộc sống mỗi ngày của tôi giống như sự lặp đi lặp lại những cuộc tự tử rồi hồi sinh tinh thần. Mỗi tối trước khi đi ngủ, tôi đều ước mình sẽ không tỉnh lại. Hoặc ít ra, tôi không muốn tỉnh dậy trong thế giới không có Aki. Nhưng khi trời sáng, tôi luôn luôn thức dậy với một thế giới lạnh lẽo, trống rỗng và thiếu vắng em. Và tôi hồi sinh giống như Chúa Jesus đầy tuyệt vọng. Một ngày mới bắt đầu, tôi sẽ ăn cơm và nói chuyện với mọi người. Nếu trời mưa, tôi sẽ xòe ô và hong khô quần áo ướt. Nhưng chẳng điều gì có nghĩa với tôi. Tựa như những phím đàn dương cầm bị đánh loạn nhịp đang phát ra những âm thanh lộn xộn.

Tôi thường mơ thấy Aki và mình lênh đênh trên một vùng biển yên bình. Em đang nói về đường chân trời. Rằng liệu có phải đường chân trời được gọi như thế từ khi người ta tin rằng biển là một mặt phẳng giống cái mâm, và nó trút xuống như một thác nước ở nơi tận cùng thế giới? Tôi trả lời rằng kể cả đúng là như thế thì nơi tận cùng của thế giới cũng ở rất xa, xa tới mức không một con thuyền nào có thể đi tới được, thành ra nó cũng giống như không tồn tại vậy. Khi tôi vừa nói vừa ngoảnh lại phía sau thì thấy biển đang đổ xuống cách đó chỉ vài mét, một lượng nước khổng lồ bị hút xuống hung bạo trong im lặng.

Tôi giục Aki cùng nhảy xuống biển và bắt đầu bơi ngược dòng thác. Một dòng chảy mạnh mẽ đang cuốn lấy mặt nước tĩnh lặng mà mới rồi tôi còn thấy lúc ở trên thuyền. Chúng tôi chống chọi với nó, quẫy đạp chân tay và ráng sức bơi. Bơi được một lát thì sức hút của dòng chảy yếu dần và tôi nhận ra mình đã thoát. Nhưng khi nhìn sang bên, tôi không còn thấy Aki đang bơi cạnh mình nữa.

Tôi nghe thấy một tiếng hét và quay lại. Aki đang bị hút vào thác nước. Bị quăng quật giữa dòng chảy xiết, cơ thể em xoay tròn như một con quay. Em thét lên và vùng vẫy trên mặt nước. Đằng sau em, nước biển đổ xuống không một tiếng động. Biển trở nên tàn bạo hơn trong sự tĩnh lặng hoàn hảo. Tôi bắt đầu cuống quýt bơi trở lại. Nhưng quá muộn. Tôi thừa biết là đã quá muộn. Mình luôn luôn chậm chân, tôi cay đắng nghĩ trong lúc rẽ nước.

Giọng Aki vọng đến từ rất xa. Tôi gào đáp lại. Nhưng dòng nước đã nuốt chửng đôi bàn tay, khuôn mặt, mái tóc trải dài trên mặt nước của em. Điều cuối cùng tôi nhìn thấy là đôi mắt mở to đầy kinh hoàng và tuyệt vọng của em trước khi biến mất vào làn nước xanh thẫm.

*****

Sự trống trải vẫn ngự trị trong tôi ngay cả khi kỳ học mới bắt đầu. Bạn cùng lớp không làm tôi thấy khuây khỏa hay được an ủi. Tôi có thể giả bộ như thể mình thích trò chuyện với họ, nhưng tôi hoàn toàn không có cảm giác ấy. Tôi chẳng có cảm nhận gì đối với những lời mình nói. Tôi thấy mình không có thực trước mặt lũ bạn, và dường như cả giọng nói cũng không phải của tôi. Tôi dần cảm thấy sự có mặt của bọn chúng là một gánh nặng. Tôi bắt đầu tránh những nơi đông người và thích ở một mình hơn. Tôi không còn cảm giác mình đang tồn tại cùng những người khác. Tựa như chỉ có mình tôi trên thế gian này.

Về đến nhà là tôi liền mở sách tham khảo và bài tập ra học. Tôi có thể chúi mũi vào đó hàng giờ. Giải những bài toán vi phân hay tích phân hóc búa và tra từ điển tiếng Anh khiến tôi không còn đau khổ. Chính vì chẳng còn chỗ cho cảm xúc nên công việc ấy trở nên dễ chịu hơn những thứ khác. Dẫu vậy, thỉnh thoảng những hồi ức vẫn bất ngờ đánh úp tôi. Chẳng hạn như khi tình cờ bắt gặp thành ngữ “rain cats and dogs” trong một câu văn tiếng Anh, tôi liền nhớ lại ngày Aki và tôi đi trong cơn mưa tầm tã. Chúng tôi chui vào chiếc ô em mang và sánh vai nhau đi về trên con đường quen thuộc. Khi đến nhà em, cả hai đều ướt sũng. Aki lấy cho tôi khăn tắm, nhưng tôi bảo đằng nào rồi cũng ướt và cứ thế đi bộ về nhà với chiếc ô của em. Mỗi khi những kỷ niệm ấy tràn về, trái tim tôi lại đau rất như làn da cháy nắng mùa hè.

Mỗi ngày đều chẳng có liên quan tới ngày trước đó. Thời gian không chảy thành một dòng liên tục trong tôi. Cảm giác về sự tiếp diễn, phát triển hay thay đổi của mọi vật đã biến mất. Đối với tôi, sống chỉ có nghĩa là đang hiện diện. Không có tương lai, cũng chẳng có hy vọng nào mở ra cho tôi. Còn quá khứ thì đầy những kỷ niệm đau đớn đến ứa máu mỗi khi chạm tới. Mặc cho máu chảy, tôi vẫn vui đùa với những kỷ niệm. Tôi tự nhủ máu cuối cùng rồi sẽ đông lại và vết thương sẽ đóng vẩy. Và rồi liệu có lúc nào tôi không còn thấy đau khi chạm đến những hồi ức về Aki?

Phần 02

Một hôm, sau khi đã sang năm mới ít lâu, tôi có xem một chương trình ti vi tổng hợp ở nhà ông, trên đó, một nhà văn nổi tiếng đang nói về thế giới bên kia. Con người tồn tại trong trạng thái mà ý thức và thân xác là một thể hỗn hợp, ông ta nói. Bằng cái chết, chúng ta sẽ lột bỏ đi lớp áo khoác bên ngoài là thân xác. Theo đó, ý thức sẽ bay ra khỏi người chết như cách bướm rời cái kén của mình và bắt đầu hành trình sang thế giới bên kia, nơi những người thân yêu đã qua đời đang chờ đợi. Ông ta cũng nói, thế giới bên kia đã gửi cho chúng ta rất nhiều tín hiệu, nhưng chúng ta đã quá quen với lý tính đến mức không nhận ra chúng. Chúng ta cần phải để ý hơn để đừng bỏ lỡ những tín hiệu đó. Đấy là tất cả những gì ông nhà văn nói, nhưng tôi thì cho rằng ông ta là một tay nhảm nhí.

“Ông nghĩ thế nào ạ?” tôi hỏi khi chương trình kết thúc. “Liệu thế giới bên kia có tồn tại? Nơi chúng ta có thể đoàn tụ với những người thân yêu?”

“Nếu thế thì thật tuyệt,” ông trả lời, mắt vẫn dán vào màn hình.

“Cháu không nghĩ rằng nó tồn tại.”

“Nếu thế thì thật buồn.”

“Khi người ta chết, họ sẽ nằm đó, và ta sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa. Chẳng phải ai cũng biết điều này sao?” Tôi hơi gắt gỏng.

“Khi người ta chết, họ sẽ nằm đó, và ta sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa. Chẳng phải ai cũng biết điều này sao?” Tôi hơi gắt gỏng.

Ông tôi có vẻ lúng túng. “Cháu bi quan quá mức rồi đấy.”

“Lúc nào cháu cũng nghĩ về nó. Rằng tại sao con người lại tạo ra thiên đường và thế giới bên kia.”

“Thế cháu cho rằng tại sao?”

“Vì những người họ yêu quý đã chết đi.”

“Ồ.”

“Con người sáng tạo ra thiên đường và thế giới bên kia vì có quá nhiều người họ yêu đã chết. Ý cháu là, người chết bao giờ cũng là người khác, không phải mình, đúng không? Nên những người còn sống thường muốn bấu víu vào cái quan niệm ấy để cứu rỗi người chết. Nhưng cháu cho rằng tất cả đều không có thật. Thiên đường và thế giới bên kia chỉ là sự hư cấu của con người, thế thôi.”

Ông tôi cầm điều khiển trên bàn lên và tắt ti vi.

“Trong thế giới của chúng ta, chết là một điều tàn nhẫn, Sakutaro ạ.” Ông nói với một giọng thân tình. “Không có gì sau cái chết, và cũng chẳng có tái sinh, cái chết chỉ đơn giản là hư vô… Quá tàn nhẫn phải không?”

“Nhưng sự thực là thế, chúng ta đâu còn lựa chọn khác?”

“Ông cho rằng đó chỉ là một cách nhìn.”

“Khi đọc được rằng những tín đồ Cơ Đốc giáo coi cái chết là đẹp đẽ và không có gì phải sợ, cháu thực sự phát điên. Thật ngu ngốc và ngạo mạn. Cái chết không đẹp. Nó chỉ kinh khủng và trống rỗng. Ta chẳng thể làm gì với nó cả.”

Ông tôi im lặng nhìn lên trần nhà một lúc. Cuối cùng ông nói, mắt vẫn ngước lên trên.

“Người ta nói rằng Khổng Tử không bàn về Trời, nhưng khi một môn đệ của ngài chết, ngài đã khóc váng lên mà rằng, ‘Trời đã hại ta!’ Và Hoằng Pháp Đại Sư Không Hải, người thuyết giảng về cõi bất sinh bất diệt, cũng đã ứa nước mắt trước cái chết của một đệ tử.” Ông quay sang tôi và hỏi, “Tại sao mất một người thân yêu lại đau đớn đến vậy?”

Thấy tôi im lặng, ông tiếp tục.

“Ông thì cho rằng lý do nằm ở chỗ cháu đã yêu người đó. Không phải bản thân sự chia lìa hay vắng bóng họ làm cháu thấy buồn. Mà bởi những ý nghĩ về họ khiến sự chia lìa trở nên đau đớn, và những hình bóng cũ vẫn cứ bám theo. Vả lại, sự thương tiếc chẳng bao giờ cạn kiệt. Vì thế, đau buồn hay thương tiếc chẳng qua chỉ là một hình thức biểu lộ của thứ tình cảm yêu thương lớn lao mà cháu dành cho họ. Chẳng vậy sao?”

“Cháu không biết nữa.”

“Cứ nghĩ sẽ thế nào nếu một ai đó chết đi. Nếu một người cháu không hề quan tâm chết đi, hẳn là cháu sẽ chẳng nghĩ ngợi gì. Như thế không tính là một nỗi mất mát. Chỉ khi cháu không muốn ai đó chết đi lúc ấy cháu mới nhận thấy sự ra đi của họ. Nghĩa là, sự ra đi của một người nào đó có thể là một phần những ý nghĩ của cháu dành cho họ. Vì cháu yêu người đó, nên sự vắng mặt ấy trở thành vấn đề, sự vắng mặt ấy gây ra nỗi đau cho người ở lại. Và sự đau buồn luôn đưa cháu đến một kết luận, giống như: chia lìa thật đau đớn, nhưng rồi chúng ta sẽ gặp lại.”

“Ông có nghĩ ông sẽ gặp lại bà ấy?”

“Khi cháu nói ‘gặp lại’, có phải ý cháu là gặp lại dưới một hình dạng cụ thể?”

Tôi không trả lời.

“Nếu cháu cho rằng những thứ nhìn thấy được, ý ông là những thứ hữu hình, mới là tất cả thì chắc hẳn cuộc đời chúng ta sẽ chẳng còn gì thú vị,” ông nói. “Không, ông không nghĩ là người ông yêu sẽ xuất hiện trước mặt ông trong cái thân xác ông từng biết. Và nếu quên cái thể xác ấy đi thì ông và bà ấy vẫn luôn ở bên nhau. Suốt năm mươi năm qua, chẳng có giây phút nào mà bọn ông không ở bên nhau cả.”

“Nhưng đó chỉ là sự tưởng tượng.”

“Tất nhiên là tưởng tượng. Nhưng tưởng tượng có gì xấu? Chẳng phải khoa học cũng chỉ là những tưởng tượng hay sao? Mọi tư duy bằng đầu óc con người đều không nằm ngoài sự tưởng tượng. Vấn đề còn lại là mức độ của những tưởng tưởng ấy đến đâu thôi. Các nhà khoa học chứng minh những tưởng tượng của mình bằng kính viễn vọng hay kính hiển vi. Nhưng chúng ta không phải nhà khoa học, nên hoàn toàn có thể chứng minh bằng cách khác. Ví như tình yêu chẳng hạn.”

“Tất nhiên là tưởng tượng. Nhưng tưởng tượng có gì xấu? Chẳng phải khoa học cũng chỉ là những tưởng tượng hay sao? Mọi tư duy bằng đầu óc con người đều không nằm ngoài sự tưởng tượng. Vấn đề còn lại là mức độ của những tưởng tưởng ấy đến đâu thôi. Các nhà khoa học chứng minh những tưởng tượng của mình bằng kính viễn vọng hay kính hiển vi. Nhưng chúng ta không phải nhà khoa học, nên hoàn toàn có thể chứng minh bằng cách khác. Ví như tình yêu chẳng hạn.”

“Ông vừa nói gì ạ?”

“Tình yêu, ông nói là tình yêu. Cháu không biết tình yêu là gì sao?”

“Tất nhiên cháu biết, nhưng khi từ miệng ông phát ra, nghe nó chẳng giống bình thường.”

“Đó là bởi, xét về vẻ bề ngoài, tình yêu của ông có thể giống với thứ tình yêu mà người ta thường nhắc tới nhưng xét về bản chất thì lại khác nhau.”

Tôi nghĩ rằng đó chỉ là sự huyễn tưởng của một người già. Sau khi Aki mất, sự cảm thông và những lời khuyên nhủ của người lớn với tôi đều có vẻ ngụy tạo và bao biện. Tôi không thể tiếp nhận những điều mình không thực sự cảm thấy. Tôi không thể chấp nhận cái logic chẳng ăn nhập gì với cảm giác thực của mình, rằng em đã ra đi.

“Vào phút cuối cùng, cô ấy không yêu cầu gặp cháu,” tôi nói, cất lên suy nghĩ đã đè nặng lên tôi từ bấy lâu nay. “Thậm chí cô ấy có vẻ còn không muốn gặp cháu. Ông nghĩ tại sao ạ?”

“Vậy là cả hai chúng ta đều không có mặt khi người phụ nữ ta yêu ra đi.” Ông không trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi.

“Nhưng tại sao cô ấy không muốn cháu ở bên cho đến phút cuối?”

“Cháu biết không, Sakutara,” ông tôi nói. “Con người phải đối mặt với đủ loại chia ly, nhưng thật ra là ông và cháu lại có chung một trải nghiệm. Cả hai đều không thể chung sống với người ta yêu hoặc ở bên khi người ấy mất. Ông hiểu những gì cháu đang phải trải qua. Nhưng kể cả như thế, ông vẫn nghĩ đời người là một thứ không tồi. Ông nghĩ rằng nó rất tuyệt. Nói về vẻ đẹp của nó hẳn sẽ không phù hợp với cảm giác của cháu lúc này, Sakutaro ạ, nhưng đó là cảm giác của ông. Ông thấy cuộc đời thật đẹp.”

Ông như đắm chìm vào những gì mình vừa nói. Rồi ông quay sang và hỏi, “Cháu nghĩ cái đẹp thực sự là gì?”

“Bỏ qua,” tôi đáp cụt lủn.

“Trong cuộc đời, có thứ chúng ta thực hiện được, có thứ không,” ông nói. “Chúng ta quên ngay những thứ đã thực hiện được rồi. Còn những thứ chưa bao giờ được thực hiện thì luôn nằm ở chỗ quan trọng nhất trong trái tim ta. Những gì được gọi là mơ ước và khát khao đều như vậy cả. Thành ra ông nghĩ, chính nỗi đau đáu về những điều chưa thực hiện được đang duy trì vẻ đẹp của cuộc đời này. Và vì thế, chính cái chưa thực hiện được kia đã thực hiện cho chúng ta một điều, đó là vẻ đẹp.”

Tôi cầm điều khiển lên và bật ti vi. Mọi chương trình đều tẻ ngắt và vô vị giống như sự mệt mỏi của những ngày Tết.

“Cứ đổi kênh liên tục như thế này, cháu có cảm giác Aki sẽ xuất hiện,” tôi nói, tay không ngừng bấm điều khiển. “Và thật tuyệt nếu chúng cháu có thể nói chuyện được với nhau.”

“Kiểu như mấy cái máy của Doraemon?”

“Cũng có thể.”

“Nhưng sẽ như thế nào nhỉ. Cháu không nghĩ con người ta sẽ tồi tệ hơn nếu ai đó phát minh ra một chiếc máy có thể giúp họ nói chuyện với người chết một cách đơn giản theo cái cách như cháu vừa nói hay sao?”

“Ông cho rằng sẽ tồi tệ hơn?”

“Sakutaro này, khi nghĩ về những người đã mất, cháu không cảm thấy gì đặc biệt sao?”

Tôi im lặng, không đồng tình cũng không phản đối.

“Cháu không bao giờ có những tình cảm tiêu cực đối với người chết. Cháu không thể ích kỷ hay toan tính với người chết. Dường như đó là cơ chế của con người. Cứ phân tích những tình cảm cháu dành cho Aki mà xem, Sakutaro. Buồn bã, hối tiếc, thương cảm… Tất cả những tình cảm đó thật khó khăn đối với cháu lúc này nhưng hoàn toàn không tiêu cực, không một chút nào. Chúng sẽ giúp cháu trưởng thành. Tại sao cái chết của người ta yêu thương lại làm ta tốt đẹp hơn? Có lẽ bởi cái chết luôn tách rời khỏi sự sống và không chịu bất cứ tác động nào từ sự sống. Chính vì lẽ đó, cái chết của người này có thể hóa thành chất mùn nuôi dưỡng cuộc đời một người khác.”

“Cháu có cảm giác như đang được ông an ủi.”

“Không, không phải vậy.” Ông cười gượng. “Đúng là ông muốn làm thế đấy, nhưng không thể. Không ai an ủi được cháu cả, Sakutaro ạ. Cháu phải tự mình vượt qua thôi.”

“Không, không phải vậy.” Ông cười gượng. “Đúng là ông muốn làm thế đấy, nhưng không thể. Không ai an ủi được cháu cả, Sakutaro ạ. Cháu phải tự mình vượt qua thôi.”

“Làm sao ông vượt qua được?”

“Ông quyết định suy nghĩ về trường hợp ngược lại,” ông tôi nheo mắt nhìn ra xa và nói. “Sẽ thế nào nếu ông chết trước. Nếu chuyện đó xảy ra, hẳn là bà ấy sẽ phải nếm trải cái nỗi đau mà ông đang cảm thấy lúc này. Và chắc chắn việc bới trộm mộ để lấy cho mình một ít xương của ông là quá sức đối với bà ấy. Vả lại, ông không chắc có đứa cháu nào của bà ấy có được sự thấu hiểu như Sakutaro của ông không. Khi nghĩ đến đó, ông thấy việc bị bỏ lại giúp ông gánh thay bà ấy những đau khổ. Để bà ấy khỏi phải chịu đựng những dằn vặt không cần thiết.”

“Và ông đã có được di cốt của bà ấy.”

Mặt ông bỗng trở nên rất kỳ lạ. Ông nói, “Cháu cũng vậy thôi, Sakutaro ạ. Cháu đang chịu đựng thay phần con bé. Con bé chết rồi nên không thể đau buồn cho cảnh ngộ của chính mình. Vì thế mà cháu đang đau buồn thay cho con bé. Nói cách khác, cháu đã thế thân cho con bé trong cảnh ngộ đau buồn này. Và như thế, Sakutaro à, chẳng phải cháu đang sống thay cho con bé đấy sao?”

Tôi thử nghĩ về điều ông nói.

“Nghe vẫn giáo điều thế nào ấy ông ạ.”

“Cũng chẳng sao.” Ông tôi cười hiền hậu. “Đó là những suy nghĩ của ông, mà suy nghĩ vốn là như thế. Không ai có thể suy nghĩ thấu đáo ngay từ đầu. Ngay cả khi cháu tưởng mọi chuyện đã thấu đáo rồi, thị lại không phải như vậy, vẫn có thứ còn thiếu. Và cháu sẽ tiếp tục suy nghĩ về cái còn thiếu đó. Cuối cùng, suy nghĩ sẽ đem đến cho cháu những cảm giác thật. Vậy thôi.”

Chúng tôi ngừng nói chuyện và lắng nghe những âm thanh bên ngoài. Hình như gió bắt đầu thổi. Thỉnh thoảng, một cơn gió lắc mạnh cánh cửa sổ ban công như muốn giật tung nó ra.

“Đi Úc đi!” Ông nhẹ nhàng nói. “Hãy ngắm nhìn hoang mạc và lũ chuột túi cùng con bé.”

“Cha mẹ cô ấy muốn rắc tro cô ấy ở đó.”

“Ừ, có nhiều cách an táng mà.”

“Hồi cô ấy còn khỏe, cháu đã kể chuyện ông cháu mình đi trộm di cốt với cô ấy.”

“Thật vậy sao?”

“Chúng cháu còn cùng nhau xem phần di cốt ấy nữa.”

Tôi đưa mắt dò xét phản ứng của ông thì thấy ông đang khoanh tay và nhắm nghiền hai mắt.

“Cháu làm ông giận ạ?”

Ông từ từ mở mắt và mỉm cười.

“Ông đã trao nó cho cháu nghĩa là cháu có quyền làm gì mình thích.”

“Sau khi ngắm phần di cốt ấy, chúng cháu đã trao nhau nụ hôn đầu tiên. Cháu không hiểu tại sao. Chúng cháu không định làm vậy, nhưng chuyện cứ thế xảy ra.”

Ông giữ im lặng hồi lâu, rồi cất tiếng.

“Một câu chuyện hay.”

“Vâng, nhưng cô gái cháu hôn bây giờ cũng trở thành tro bụi rồi.”
Chương trước Chương tiếp
Loading...